Có nhiều cách hiểu, nhiều con đường khác nhau để đi tới khái niệm tiếp cận công lý, công bằng. Ví dụ, trong bối cảnh thiếu hụt các dịch vụ pháp lý cho người nghèo thì các nhà nghiên cứu có thể đánh giá khía cạnh vai trò của các luật sư trong việc tiếp cận công bằng đối với người nghèo.
I. Khái niệm quyền tiếp cận công bằng
1. Khái niệm
Quyền tiếp cận công bằng hay
quyền tiếp cận công lý được dịch từ cụm từ tiếng Anh "access to justice"[1]. Đây cũng có thể coi là một khái niệm mới trong giới luật học trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Coi đó là khái niệm mới bởi nội dung, ý nghĩa của nó vẫn còn được thảo luận sôi nổi tại các diễn đàn khoa học và kết quả cho thấy, có thể hiểu và nên hiểu một cách linh hoạt ý nghĩa, nội dung của cụm từ này trong mỗi lĩnh vực, phạm vi, hoàn cảnh, thời điểm, địa điểm và mục đích nghiên cứu. Ví dụ, tại Hội nghị Diễn đàn toàn cầu về tiếp cận công bằng tổ chức tại New York từ ngày 6/4 đến ngày 8/4/2000, các tham luận và thảo luận được trình bày toát lên ý nghĩa của cụm từ tiếp cận công bằng có thể sử dụng trong các khái niệm và ý nghĩa mà theo đó, có thể bao hàm cả việc được bảo đảm có đại diện pháp luật cho người nghèo tới việc cải cách pháp luật một cách toàn diện và liên quan tới vấn đề toàn cầu hoá. Các luật sư từ Mỹ nhấn mạnh đến quyền được bảo đảm có luật sư về dân sự cho tất cả các cá nhân; cũng có luật sư kêu gọi việc cần phải có nguồn lực để ổn định nền tư pháp và cung cấp các chương trình đào tạo pháp lý. Trong khi đó, các luật sư thuộc Nam Phi lại nhắc tới hiệu quả của các án lệ trong việc bảo vệ quyền của các công dân hạng thấp của xã hội.
Như vậy, có nhiều cách hiểu, nhiều con đường khác nhau để đi tới khái niệm tiếp cận công lý, công bằng. Ví dụ, trong bối cảnh thiếu hụt các dịch vụ pháp lý cho người nghèo thì các nhà nghiên cứu có thể đánh giá khía cạnh vai trò của các luật sư trong việc tiếp cận công bằng đối với người nghèo.
2. Phạm vi nghiên cứu
ở đây, chúng tôi muốn đề cập đến khía cạnh bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền của tổ chức, công dân bằng con đường tố tụng (gồm tố tụng dân sự, hình sự và hành chính).
Do việc ngày càng mở rộng các quyền chủ quan của các chủ thể pháp luật, cũng như trên bình diện tổng thể bảo vệ pháp luật trước các hoạt động của các cơ quan nhà nước, việc bảo vệ, kiểm tra pháp luật đã chuyển sang một bước mới về chất, khác với các giai đoạn trước đây. Pháp luật về tố tụngngày càng được hoàn thiện đã đáp ứng phần nào những yêu cầu chính đáng của tổ chức, công dân, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Cùng với sự phát triển của luật pháp, các toà án ngày càng có một vị trí quan trọng, xứng đáng với tầm cỡ của nó qua việc thích ứng với những thay đổi của xã hội và luật pháp.
Pháp luật Việt Nam đã có những quy định rất tiến bộ từ Hiến pháp năm 1946 về cơ quan tư pháp độc lập và tạo điều kiện cho người dân tiếp cận công bằng như quy định các phiên toà án đều phải công khai, trừ những trường hợp đặc biệt. Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư (Điều thứ 67); “Trong khi xét xử, các viên thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp (Điều thứ 69); “Quốc dân thiểu số có quyền dùng tiếng nói của mình trước toà án (Điều thứ 66).
Hiến pháp năm 1992 quy định mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật (Điều 52); quy định quyền khiếu nại tố cáo của công dân (Điều 74); nguyên tắc xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia, hội thẩm ngang quyền với thẩm phán (Điều 129). Tại Điều 132 Hiến pháp năm 1992 quy định "Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình và Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các điều 130, 131, 133 của Hiến pháp năm 1992 có các quy định nhằm bảo đảm cho việc xét xử độc lập của toà án và tạo điều kiện cho người dân tiếp cận công bằng. Các điều 134, 136, 137 còn quy định một số nguyên tắc nhằm bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của hoạt động xét xử.
Tuy nhiênT, Hiến pháp mới chỉ quy định có tính nguyên tắc về quyền tiếp cận công bằng, một số quy định liên quan về nguyên tắc tổ chức và hoạt động xét xử, còn pháp luật về tố tụng hình sự, tốtụng dân sự, tố tụng hành chính có những quy định cụ thể hơn. Xin được giới hạn ở phạm vi nghiên cứu các nguyên tắc, quy định tố tụng hình sự, dân sự, hành chính của Việt Nam có liên quan trực tiếp nhất tới quyền tiếp cận công bằng của tổ chức, cá nhân.
II. Tổng hợp các quy định tố tụng hình sự, dân sự hành chính về quyền tiếp cận công bằng
1. Các quy định tố tụng hình sự về quyền tiếp cận công bằng
a) Về quyền tiếp cận công bằng của người tham gia tố tụng
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS) quy định cụ thể quyền của người bị tạm giữ (Khoản 2 Điều 48), bị can (Khoản 2 Điều 49), bị cáo (Khoản 2 Điều 50), người bị hại (Khoản 2 Điều 51); nguyên đơn dân sự (Khoản 2 Điều 52); bị đơn dân sự (Khoản 2 Điều 53); người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án (Khoản 1 Điều 54). Ví dụ, liên quan đến quyền của bị cáo, BLTTHS quy định bị cáo có quyền tham gia phiên toà; được giải thích về quyền và nghĩa vụ; đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật; đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa; nói lời sau cùng trước khi nghị án; kháng cáo bản án, quyết định của Toà án; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụngcủa cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng v.v..
b) Về chứng cứ
Việc chứng minh tội phạm được tiến hành trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự thông qua các hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ của các cơ quan tiến hành tố tụng. BLTTHS năm 2003 có các quy định về những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự (Điều 63), chứng cứ (Điều 64), thu thập chứng cứ (Điều 65), đánh giá chứng cứ (Điều 66), lời khai của người làm chứng (Điều 67), lời khai của người bị hại (Điều 68).v.v.. trong đó có quy định bổ sung, sửa đổi so với BLTTHS năm 1988 nhằm bảo đảm cho các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết đúng đắn vụ án như bổ sung nguồn chứng cứ mới là lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, lời khai của người bị bắt và các đồ vật khác do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp[2].
c) Về người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự
Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã định hướng mở rộng tranh tụng trong tố tụng hình sự và đặt nhiệm vụ cho cơ quan tư pháp phải bảo đảm hoạt động của người bào chữa: "Nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác…"; "việc phán quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà…". Nghị quyết số 08/NQ-TW còn xác định rõ "các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên toà". Theo tinh thần đó, BLTTHS năm 2003 đã sửa đổi, bổ sung theo hướng mở rộng quyền của người bào chữa. Người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can hoặc được tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ trong trường hợp bắt khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã (Điều 81, Điều 82). Trường hợp cần phải giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.
Việc sửa đổi của BLTTHS năm 2003 đã tạo điều kiện bảo vệ tốt hơn người bị tạm giữ và bị can, bảo đảm cho họ quyền tiếp cận công bằng sớm hơn. Khoản 2 Điều 58 BLTTHS năm 2003 quy định cụ thể quyền của người bào chữa và Điều 59, Khoản 3 quy định cụ thể quyền của người bảo vệ quyền lợi của đương sự.
d) Về thủ tục tố tụng tại phiên toà
Các Chương XIX, XX, XXI của BLTTHS năm 2003 (từ điều 201 đến điều 216) gồm các quy định về thủ tục bắt đầu phiên toà, xét hỏi tại phiên toà và đặc biệt là tranh luận tại phiên toà thể hiện tinh thần cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước, đó là toà án là nơi các bên tham gia tố tụng thực hiện các quyền tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Toà án phải trở thành cơ quan làm trọng tài phân xử vụ án, Hội đồng xét xử không tham gia tranh luận. Chủ toạ phiên toà chỉ điều khiển để các bên tham gia tranh luận, bày tỏ quan điểm của mình về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án[3].
BLTTHS năm 2003 có những thay đổi tiến bộ trong việc quy định tranh tụng tại phiên toà so với BLTTHS năm1988 với các quy định bổ sung như về việc hỏi bị cáo, hỏi người làm chứng, về trình tự phát biểu khi tranh luận, đối đáp khi tranh luận tại phiên toà, về các căn cứ nghị án[4].
Để tăng cường tranh tụng tại phiên toà, BLTTHS năm 2003 đã bổ sung quy định tại Khoản 3 Điều 209 về việc hỏi bị cáo, đó là: kiểm sát viên hỏi về những tình tiết của vụ án liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội bị cáo. Người bào chữa hỏi về những tình tiết liên quan đến việc bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự hỏi về những tình tiết liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của đương sự. Những người tham gia phiên toà có quyền đề nghị với chủ tọa phiên toà hỏi thêm về những tình tiết liên quan đến họ.
Ngoài ra, các quy định về việc trình bày, công bố các tài liệu của vụ án và nhận xét, báo cáo của cơ quan, tổ chức (Điều 214) cũng thể hiện rõ nguyên tắc xét xử trực tiếp, công khai, minh bạch trong hoạt động tố tụng hình sự. Điều luật này quy định Các tài liệu đã có trong hồ sơ vụ án hoặc mới đưa ra khi xét hỏi đều phải được công bố tại phiên tòa. Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người khác tham gia phiên tòa có quyền nhận xét về những tài liệu đó và hỏi thêm những vấn đề có liên quan. Theo Điều 215 Khoản 4, kiểm sát viên, người bào chữa và những người khác tham gia phiên tòa có quyền nhận xét về kết luận giám định, được hỏi những vấn đề còn chưa rõ hoặc có mâu thuẫn trong kết luận giám định.
đ) Về vai trò, nhiệm vụ của tòa án trong việc bảo đảm quyền tiếp cận công bằng
BLTTHS năm 2003 quy định Tòa án phải trực tiếp xác định những tình tiết của vụ án bằng cách hỏi và nghe ý kiến của bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ, người làm chứng, người giám định, xem xét vật chứng và nghe ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Bản án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa (Điều 184); “Bản án phải được thảo luận và thông qua tại phòng nghị án (Khoản 1 Điều 199). Quyết định về việc thay đổi thành viên của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án, người giám định, người phiên dịch, chuyển vụ án, yêu cầu điều tra bổ sung, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án và về việc bắt giam hoặc trả tự do cho bị cáo phải được thảo luận và thông qua tại phòng nghị án và phải được lập thành văn bản (Khoản 2 Điều 199).
Theo Khoản 4 Điều 200 BLTTHS năm 2003, kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bảo vệ quyền lợi của đương sự hoặc đại diện hợp pháp của những người đó được xem biên bản phiên tòa "có quyền yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa và ký xác nhận".
2. Các quy định tố tụng dân sự về quyền tiếp cận công bằng
a) Các nguyên tắc chung của Bộ luật tố tụng dân sự liên quan tới tiếp cận công bằng
Với 22 nguyên tắc cơ bản được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS), ngoài việc kế thừa các nguyên tắc đã được ghi nhận trong các Luật tổ chức Toà án nhân dân, Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, các Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, tranh chấp lao động, BLTTDS đã ghi nhận một số nguyên tắc cơ bản mới ít nhiều có liên quan đến bảo đảm quyền tiếp cận công bằng như quy định "trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, tổ chức có thẩm quyền" (Điều 7); "Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự (Điều 10); "Trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tốtụng dân sự" (Điều 13); "Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng dân sự" (Điều 14); "Trách nhiệm chuyển giao tài liệu, giấy tờ của Toà án" (Điều 22); "Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự" (Điều 24). Điều 8 BLTTDS quy định bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự, theo đó, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, trước Tòa án không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp; mọi cơ quan, tổ chức đều bình đẳng không phụ thuộc vào hình thức tổ chức, hình thức sở hữu và những vấn đề khác; các đương sự đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự; toà án có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
b) Về chứng cứ
Điều 58 BLTTDS quy định quyền của đương sự khi tham gia tố tụng là được cung cấp chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình (Khoản 2, điểm a); yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản lý chứng cứ cung cấp chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Toà án (Khoản 2, điểm b); đề nghị toà án xác minh, thu thập chứng cứ của vụ án mà tự mình không thể thực hiện được hoặc đề nghị Toà án triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, định giá; khiếu nại với Viện kiểm sát về những chứng cứ mà Toà án đã xác minh, thu thập do đương sự khác yêu cầu (Khoản 2 điểm c); được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất trình hoặc do Toà án thu thập (Khoản 2 điểm d); đề nghị Toà án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (Khoản 2 điểm đ); Tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình (Khoản 2 điểm h); tham gia phiên toà (Khoản 2 điểm i); đề xuất với Toà án những vấn đề cần hỏi người khác; được đối chất với nhau hoặc với nhân chứng (Khoản 2 điểm l) ; được tranh luận tại phiên toà (Khoản 2 điểm m); kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Toà án (Khoản 2 điểm o).
c) Về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
BLTTDS quy định tại Điều 63 và Điều 64 về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Điều 64 cho phép người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự "tham gia tố tụng từ khi khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn nào trong quá trình tố tụng dân sự. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được tham gia phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm nếu Toà án xét thấy cần thiết".
3. Các quy định tố tụng hành chính với quyền tiếp cận công bằng
a) Vai trò, nhiệm vụ của Toà án với việc bảo đảm quyền khiếu kiện các quyết định hành chính, hành vi hành chính
Một trong những quyền cơ bản được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 là quyền khiếu nại, tốcáo của công dân[5]. Tuy vậy, quyền khiếu nại, tố cáo theo tinh thần của Hiến pháp năm 1992 mới chỉ là một bảo đảm pháp lý ban đầu đối với người dân và ở thời điểm xây dựng quy định này, nhà lập hiến chưa tính đến việc yêu cầu cơ quan tư pháp phải can thiệp khi công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi trái pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Trước đây, khi chưa có toà án hành chính, việc giải quyết các khiếu nại của công dân đối với các quyết định hành chính do chính cơ quan ban hành quyết định hành chính và các cơ quan hành chính cấp trên giải quyết. Tuy nhiên, ngay cả sau khi có Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, cơ quan hành chính vẫn giải quyết chủ yếu các vụ việc liên quan đến quyết định hành chính, hành vi hành chính.
Việc thiết lập các toà án hành chính[6] là một bước tiến mới của cải cách tư pháp, góp phần bảo đảm quyền khiếu kiện và quyền tiếp cận công bằng thông qua tố tụng hành chính. Trên cơ sở chức năng bảo vệ pháp luật của Toà án, việc kiểm tra tính tuân thủ pháp luật một cách khách quan đối với các hoạt động của các cơ quan công quyền là một điều bắt buộc. Trong quản lý hành chính, công dân là một bên trong quan hệ có tính chất bất bình đẳng với cơ quan hành chính nhà nước, do đó, cơ quan hành chính có thẩm quyền giải quyết khó có thể giải quyết vô tư, khách quan và dễ vi phạm pháp luật, lạm dụng quyền và như vậy, quyền lợi công dân khó được bảo vệ. Lựa chọn con đường tài phán có thể bảo đảm hơn về quyền lợi cho người khiếu kiện. Nếu giải quyết bằng con đường tài phán thì quyền lợi của người khiếu kiện có thể bảo đảm hơn vì nguyên tắc tố tụng là các đương sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong quá trình giải quyết vụ án (Ví dụ: quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của các bên trong quá trình tố tụng).
Giải quyết bằng con đường khiếu nại đến cơ quan hành chính, ý chí chủ quan của cơ quan hành chính khi giải quyết vụ việc (bên bị khiếu nại hoặc cấp trên của bên bị khiếu nại) có thể ảnh hưởng đến lợi ích của người khiếu kiện. Hơn nữa, quyết định giải quyết khiếu nại khó được đảm bảo thực thi so với một bản án đã có hiệu lực pháp luật bởi nhờ các cơ chế thi hành bản án. Cuối cùng là việc xét xử tại toà án bảo đảm tính công khai, minh bạch trong quá trình xem xét vụ việc. Trong khi đó, thủ tục giải quyết hành chính có tính chất đơn phương của cơ quan hành chính. Nguyên tắc bảo đảm cho mọi người quyền được điều trần trước toà án theo pháp luật hết sức quan trọng, vì nó có nghĩa là bất cứ ai cũng có quyền phát ngôn trước tòa về trường hợp của mình và toà án chỉ có quyền xem xét các sự việc sau khi mọi người liên quan đến vụ án đã được phát biểu ý kiến của mình[7].
b) Một số quy định liên quan đến quyền khiếu kiện các quyết định /hành vi hành chính và quyền tiếp cận công bằng
Điều chỉnh về tố tụng hành chính, Việt Nam đã ban hành Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 21/5/1996; Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số 10/1998/PL-UBTVQH ngày 25/12/1998 và Pháp lệnh số 29/2006/PL-UBTVQH ngày 5/4/2006 để sửa đổi bổ sung một số điều cho phù hợp với tình hình thực tiễn
.Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 với các lần sửa đổi bổ sung năm 2004 và năm 2004 đã cải thiện đáng kể quyền tiếp cận công bằng của tổ chức, cá nhân khi có tranh chấp hành chính.
Theo tinh thần các văn kiện của WTO và Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, thì các bên phải thiết lập một cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính nhanh chóng, khách quan, công bằng và không thiên vị; các khiếu kiện hành chính phải được giải quyết bởi toà án. Vì lẽ đó, Luật Khiếu nại, tốcáo năm 2005 cũng đã kịp thời có những sửa đổi, bổ sung như sửa Điều 39, Điều 46 để bảo đảm quyền tiếp cận cơ quan toà án của người khiếu nại; Điều 16 Khoản 2; Điều 17 (bổ sung các quy định về quyền của người khiếu nại nhờ luật sư giúp đỡ
về pháp luật trong quá trình khiếu nại; biết các bằng chứng để làm căn cứ giải quyết khiếu nại; đưa ra bằng chứng về việc khiếu nại và giải trình ý kiến; biết thông tin, tài liệu của việc giải quyết khiếu nại); Điều 45 bổ sung quy định trong quá trình giải quyết khiếu nại lần hai, người giải quyết khiếu nại có thể gặp gỡ, đối thoại trực tiếp với người khiếu nại, người bị khiếu nại để làm rõ nội dung khiếu nại, yêu cầu của người khiếu nại và hướng giải quyết khiếu nại. Trong trường hợp người khiếu nại nhờ luật sư giúp đỡ về pháp luật thì luật sư có quyền tham gia trong quá trình giải quyết khiếu nại.
Điều 46 Luật Khiếu nại, tố cáo được sửa đổi bổ sung năm 2005 quy định, trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải quyết quy định tại Điều 43 của Luật Khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết hoặc kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại mà người khiếu nại không đồng ý thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án (quy định cũ: “Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải quyết quy định tại Điều 43 của Luật này mà khiếu nại không được giải quyết hoặc kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại mà người khiếu nại không đồng ý, thì có quyền tiếp tục khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo, trừ trường hợp quyết định đó là quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng”). Sửa đổi này có ý nghĩa quan trọng vì theo yêu cầu của WTO và các thoả thuận song phương, các quyết định /hành vi hành chính bị khiếu nại đều có thể được xem xét bởi một cơ quan tư pháp, cho dù việc đó đã có quyết định giải quyết cuối cùng của cơ quan hành chính. Hiện nay, Chính phủ cũng đang nghiên cứu thành lập cơ quan tài phán hành chính độc lập để giải quyết các khiếu nại hành chính, nhằm khắc phục tình trạng khiếu nại vượt cấp, khiếu nại đông người và quy trình thiếu minh bạch trong thủ tục giải quyết khiếu nại của các cơ quan hành chính. Đặc điểm của cơ quan này là cơ quan tài phán (i), nằm trong cơ quan hành pháp (ii), hoạt động theo thủ tục như toà án (iii) để đảm bảo tính công bằng, vô tư trong xem xét lại và sửa chữa các quyết định hành chính, hành vi hành chính (iv). Thủ tục tố tụng được tiến hành theo thủ tục tương tự như khi toà án giải quyết các tranh chấp hình sự, dân sự, lao động, thương mại, đó là tiến hành các phiên xét xử theo đó cả hai bên có thể đưa ra bằng chứng và phản bác lại bằng chứng của bên kia qua việc kiểm tra chéo, mời người làm chứng là các chuyên gia và những người làm chứng khỏc[8].
Chú thích:
[1] Chúng tôi cho rằng sử dụng cụm từ quyền tiếp cận công bằng
sẽ lột tả chính xác ý nghĩa và dễ hiểu, dễ tiếp cận hơn là cụm từ quyền tiếp cận pháp luật
vì độc giả có thể cho rằng, tiếp cận pháp luật
là tiếp cận với văn bản pháp luật hay tuyên truyền pháp luật, minh bạch hoá hệ thống pháp luật.
[2] Bình luận Bộ luật tố tụng hình sự, Viện Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp, Nhà Xuất bản tư pháp, Hà nội năm 2005, tr.132.
[4] TS. Trần Mạnh Đạt, Pháp luật Hình sự Việt Nam: Thử nhìn từ khía cạnh mở rộng quyền dân chủ và bảo đảm công lý của công dân, Dự án VIE 02/015 Hỗ trợ thực thi chiến lược phát triển hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, Hội nghị bán thường niên và Diễn đàn đối tác pháp luật, Đà Nẵng 10-11/10/2005.
[5] Điều 74 Hiến pháp năm 1992 quy định: ”Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà n ước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà n ước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại, tố cáo phải đ ược cơ quan nhà nư ớc xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định”
[6] Ngày 28/10/1995, Luật sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Toà án nhân dân được Quốc hội khoá IX thông qua quy định: Toà hành chính được thành lập và bắt đầu đi vào hoạt động kể từ ngày 1/7/1996. Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 21 tháng 5 năm 1996. Đây là cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm giải quyết các vụ án hành chính kịp thời, đúng pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Toà án hành chính đã dần dần khẳng định vai trò, vị trí của mình.
[7] Xem, ”Những đặc điểm cơ bản của chế độ pháp trị được ghi trong Hiến pháp Đức” – Wolfgang Horn, Nhà nước pháp quyền, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
[8] Xem, Bản Báo cáo và khuyến nghị của Dự án STAR-VIETNAM về việc thành lập cơ quan tài phán hành chính tại Việt Nam, tháng 3 năm 2006.
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP SỐ 107, THÁNG 10 NĂM 2007 - TS. NGUYỄN VĂN THẢNH – THS. NGUYỄN THỊ HẠNH
Công ty Luật Bắc Việt Luật
P2802, tầng 28, tòa nhà Central Fied , Trung Kính, Trung Hòa, Cầu Giấy, Hà nội
Tel: 87696666-0386319999
Hotline: 0938-188-889 – 0913753918
www.bacvietluat.vn - www.tuvanluat.net - www.sanduan.vn"HÃY NÓI VỚI LUẬT SƯ ĐIỀU BẠN CẦN"