MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC ĐIỀU CHỈNH LÃI SUẤT CƠ BẢN

NGUYỄN CAO KHÔI – VIETCOMBANK Trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sử dụng nhiều công cụ khác nhau, trong đó có lãi suất, để thực hiện điều hành chính sách tiền tệ quốc gia thông qua việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền của mình. Tuỳ theo chính sách, chủ trương của Đảng, chỉ đạo của Chính phủ trong từng thời kỳ và những diễn biến trên thị trường tài chính – tiền tệ trong nước, quốc tế mà NHNN quy định cơ chế điều hành lãi suất cho phù hợp. Bên cạnh đó, các văn bản quy phạm pháp luật do NHNN ban hành quy định về cơ chế điều hành lãi suất phải bảo đảm nguyên tắc: đúng thẩm quyền và phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp trên. Sau nhiều năm thực hiện điều hành cơ chế lãi suất thỏa thuận, ngày 16/5/2008, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN quy định về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam (Quyết định số 16) trên cơ sở quy định của Bộ luật Dân sự được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005 (có hiệu lực ngày 01/01/2006). Theo đó, kể từ ngày 19/5/2008, NHNN xoá bỏ cơ chế lãi suất trần huy động bằng đồng Việt Nam và sử dụng công cụ lãi suất cơ bản để điều tiết lãi suất kinh doanh bằng đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng theo tín hiệu của thị trường. Việc NHNN thay đổi cơ chế điều hành lãi suất này đã làm cho nhiều ngân hàng và doanh nghiệp lúng túng xác định lãi suất cho vay trong các hợp đồng tín dụng đã được ký kết. 1. Lãi suất cho vay bằng VND trong hợp đồng tín dụng đã được ký kết Trong những tháng đầu năm 2008, lạm phát diễn biến phức tạp và có xu hướng tăng, NHNN đã thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm ưu tiên thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Chính vì vậy, các doanh nghiệp và ngân hàng Việt Nam đã gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh. Cho đến giữa tháng 10/2008, khi nền kinh tế thế giới đã bước đầu được hồi phục bởi các biện pháp giải cứu, hỗ trợ của Ngân hàng Trung ương/Chính phủ các nước và tình hình lạm phát trong nước đã có những tín hiệu được kiềm chế (chỉ số giá tiêu dùng giảm, nhập siêu giảm…), NHNN ban hành một loạt các quyết định về giảm lãi suất cơ bản (từ 14%/năm xuống 13%/năm, 12%/năm), giảm lãi suất tái cấp vốn (từ 15%/năm xuống 14%/năm, 13%/năm), giảm lãi suất tái chiết khấu (từ 13%/năm xuống 12%/năm, 11%/năm), tăng lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc (từ 5%/năm lên tới 10%/năm) và cho phép các tổ chức tín dụng (nếu có nhu cầu) được thanh toán tín phiếu bắt buộc trước hạn… để tạo điều kiện cho các ngân hàng chủ động hơn về nguồn vốn, thanh khoản và giảm lãi suất cho vay. Ngay sau khi NHNN ban hành các quyết định nêu trên, nhiều ngân hàng thương mại (Agribank, SeAbank, ABBank, Techcombank, VPBank, ACB…) đã hạ lãi suất cho vay để hỗ trợ các doanh nghiệp vay vốn phát triển sản xuất kinh doanh, phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Mức giảm lãi suất cho vay cụ thể tùy thuộc vào chính sách cho vay, nguồn vốn huy động hiện có và khả năng, điều kiện thực tế của mỗi ngân hàng. Mức lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam được đa số các ngân hàng áp dụng hiện nay là khoảng từ 15%/năm – 16%/năm.   Mặc dù đã áp dụng các biện pháp nói trên để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và ngân hàng, nhưng NHNN vẫn yêu cầu các ngân hàng nghiêm túc thực hiện những biện pháp ngăn ngừa rủi ro có thể xảy ra do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ và dấu hiệu suy thoái kinh tế toàn cầu, chấp hành đúng quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh; kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng và tiếp tục điều chỉnh cơ cấu tín dụng để tăng vốn cho các lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu, nông nghiệp và nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, các dự án đầu tư khả thi, có hiệu quả và khả năng trả nợ đúng hạn. Việc NHNN thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cơ bản và giảm lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam từ 14%/năm xuống 13%/năm, rồi 12%/năm đã dẫn đến việc thay đổi lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam mà ngân hàng ấn định đối với khách hàng. Đối với những hợp đồng tín dụng được ký sau ngày áp dụng lãi suất cơ bản mới nói trên, ngân hàng và doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc thỏa thuận lãi suất cho vay vì các bên đã biết, hiểu cơ chế điều hành lãi suất mới và lãi suất cơ bản 13%/năm hoặc 12%/năm. Song, đối với những hợp đồng tín dụng bằng đồng Việt Nam được ký kết trước ngày 21/10/2008 mà trong đó, lãi suất cho vay được ấn định trên cơ sở lãi suất cơ bản bằng 14%/năm, thì ngân hàng và doanh nghiệp không biết có nên điều chỉnh lãi suất cho vay trong các hợp đồng tín dụng đó hay không? Nguyên nhân là ở chỗ, việc điều chỉnh hạ lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam nói trên của NHNN diễn ra trong một thời gian ngắn (trong vòng hơn 01 tháng áp dụng ba mức lãi suất cơ bản): bắt đầu từ 01/10/2008, áp dụng lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam là 14%/năm; từ ngày 21/10/2008, áp dụng lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam là 13%/năm; và từ 05/11/2008, áp dụng lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam là 12%/năm. Sự kiện điều chỉnh hạ lãi suất cơ bản nêu trên được công bố sau khi ngân hàng và doanh nghiệp đã ký kết nhiều hợp đồng tín dụng có lãi suất cho vay được xác định trên cơ sở lãi suất cơ bản cũ (14%/năm). Do vậy, một số ngân hàng đã thận trọng gửi văn bản đề nghị NHNN hướng dẫn ấn định lãi suất cho vay trong các hợp đồng tín dụng đã được ký kết khi có sự thay đổi cơ chế điều hành lãi suất và hạ lãi suất cơ bản nêu trên. Hợp đồng tín dụng được coi là “luật chơi” giữa bên cho vay và bên đi vay, ghi nhận ý chí của các bên phù hợp với quy định của pháp luật và đạo đức xã hội. Ý chí của các bên được thể hiện bằng những cam kết, thỏa thuận cụ thể trong hợp đồng tín dụng. Khi hợp đồng tín dụng được ký kết, thì ý chí của các bên được xác lập và các bên phải có nghĩa vụ tuân thủ những cam kết, thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng đó. Những văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý để các bên thương lượng, đàm phán, thể hiện ý chí và ghi trong hợp đồng tín dụng phải đang còn hiệu lực tại thời điểm ký hợp đồng và điều chỉnh nội dung của hợp đồng tín dụng đó. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 80 Luật Ban hành văn bản quy phạm năm 1996(1): Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó đang có hiệu lực. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định trong những trường hợp cần thiết, văn bản quy phạm pháp luật mới được quy định hiệu lực trở về trước, với điều kiện quy định hồi tố không được làm nặng hơn và phát sinh thêm trách nhiệm pháp lý mới. Trường hợp có quy định hiệu lực trở về trước, thì văn bản quy phạm pháp luật đó phải quy định rõ thời điểm có hiệu lực. Quyết định số 16 không quy định hiệu lực áp dụng đối với các hợp đồng tín dụng đã được ký kết trước ngày 19/5/2008, nên lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam trong các hợp đồng tín dụng đã được ký trước thời điểm này không chịu sự điều chỉnh theo lãi suất trần (không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố) được quy định tại Quyết định số 16. Đối với các hợp đồng tín dụng quy định lãi suất cho vay có điều chỉnh, thì khi đến kỳ hạn điều chỉnh lãi suất, ngân hàng được quyền ấn định lãi suất cho vay của kỳ hạn điều chỉnh đó và thông báo cho khách hàng vay biết, thực hiện mà không cần có sự đồng ý của khách hàng vay. Tất nhiên, lãi suất cho vay của kỳ hạn điều chỉnh do ngân hàng ấn định không được vi phạm pháp luật, hợp đồng tín dụng đã được ký kết và phải phù hợp với mặt bằng lãi suất cho vay chung được các ngân hàng khác áp dụng trên thị trường. Nếu ngân hàng ấn định lãi suất cho vay của kỳ hạn điều chỉnh quá cao, thì khách hàng vay có thể có phản ứng và không muốn duy trì quan hệ lâu dài với ngân hàng nữa hoặc cố tình chây ỳ không trả nợ đến hạn. Do vậy, việc ngân hàng điều chỉnh lãi suất cho vay không hợp lý có thể dẫn đến những hậu quả kinh doanh ngoài mong muốn: nợ xấu và nợ quá hạn tăng, giảm khách hàng và giảm dư nợ… Trong trường hợp các bên thỏa thuận về việc xác định lãi suất cho vay có điều chỉnh nêu trên, thì lãi suất cho vay của kỳ hạn điều chỉnh không chịu sự điều chỉnh của văn bản quy phạm pháp luật được ban hành và có hiệu lực tại thời điểm ấn định lãi suất cho vay của kỳ hạn điều chỉnh, mà được ấn định theo thỏa thuận của các bên trong hợp đồng tín dụng đã được ký kết và văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực tại thời điểm ký hợp đồng tín dụng vì các lý do sau: - Việc ngân hàng ấn định lãi suất cho vay của từng kỳ hạn điều chỉnh theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng đã được ký kết không làm phát sinh một hợp đồng hoặc thỏa thuận mới giữa ngân hàng với khách hàng vay, mà chỉ là việc thực hiện một điều khoản trong hợp đồng tín dụng đã được ký kết giữa các bên; - Hành vi ký hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng với khách hàng vay là đối tượng chịu sự điều chỉnh và áp dụng của văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực tại thời điểm ký hợp đồng. Do đó, hành vi ấn định lãi suất cho vay của ngân hàng đối với kỳ hạn điều chỉnh theo hợp đồng tín dụng đã được ký kết chỉ tuân theo văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực tại thời điểm ký hợp đồng và thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng đã được ký kết (trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác), chứ không thực hiện theo văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực tại ngày ấn định lãi suất cho vay của kỳ hạn điều chỉnh. Trường hợp hợp đồng tín dụng đã được ký trước khi Quyết định số 2316/QĐ-NHNN ngày 20/10/2008 (Quyết định số 2316) hoặc Quyết định số 2559/QĐ-NHNN ngày 03/11/2008 của Thống đốc NHNN (Quyết định số 2559) có hiệu lực nhưng chưa giải ngân hoặc chưa giải ngân hết, thì ngân hàng và khách hàng vay được tiếp tục thực hiện theo lãi suất đã ghi trong hợp đồng tín dụng. Việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực sau ngày ký hợp đồng tín dụng như Quyết định số 2316 hoặc Quyết định số 2559 là do ngân hàng và khách hàng tự thỏa thuận. Nếu các bên thỏa thuận được với nhau, thì lãi suất cho vay của kỳ hạn điều chỉnh được ấn định không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản được áp dụng tại thời điểm ấn định lãi suất cho vay của kỳ hạn điều chỉnh, chứ không phải là lãi suất cơ bản được công bố tại thời điểm đó. NHNN là cơ quan duy nhất được Quốc hội trao cho quyền công bố lãi suất cơ bản, nhưng ngày công bố lãi suất cơ bản không hẳn đã trùng với ngày có hiệu lực áp dụng mức lãi suất cơ bản được công bố đó. Ví dụ, theo thỏa thuận của các bên, thì kỳ hạn điều chỉnh lãi suất cho vay là 3 tháng kể từ ngày kết thúc kỳ hạn điều chỉnh lãi suất cho vay liền kề trước đó (ngoại trừ 3 tháng đầu tiên kể từ ngày ký hợp đồng tín dụng, lãi suất cho vay được ấn định và ghi trong giấy nhận nợ khi giải ngân) và thời hạn ấn định lãi suất cho vay của từng kỳ hạn điều chỉnh là 5 ngày đầu của tháng đầu tiên trong kỳ hạn điều chỉnh; nếu ngày thứ 5 của tháng đầu tiên trùng với ngày 20/10/2008, thì lãi suất cho vay của kỳ hạn điều chỉnh được ấn định không vượt quá 21%/năm của lãi suất cơ bản do NHNN công bố (lãi suất cơ bản do NHNN công bố đang có hiệu lực áp dụng tại ngày 20/10/2008 là 14%/năm), chứ không ấn định lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất cơ bản được NHNN công bố ngày 20/10/2008 (13%/năm) vì mặc dù ngày 20/10/2008, NHNN công bố lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam là 13%/năm, nhưng mức lãi suất cơ bản này chỉ được áp dụng vào ngày 21/10/2008 (ngày có hiệu lực của Quyết định số 2316). Tương tự như vậy, lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam 12%/năm là căn cứ để ngân hàng ấn định lãi suất cho vay của kỳ hạn điều chỉnh kể từ ngày 05/11/2008, chứ không phải là ngày 03/11/2008 – ngày Thống đốc NHNN công bố mức lãi suất cơ bản này. 2. Lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ Ngoài vai trò là công cụ điều tiết chính sách vĩ mô, lãi suất còn được sử dụng để ngân hàng cân đối nguồn vốn huy động và vốn cho vay trong từng thời kỳ. Luật các Tổ chức tín dụng quy định việc cho vay phải được lập thành hợp đồng tín dụng, trong đó phải có các nội dung chủ yếu như: điều kiện vay, mục đích sử dụng tiền vay, hình thức vay, số tiền vay, thời hạn vay, lãi suất… Đối với khoản cho vay bằng đồng Việt Nam, lãi suất cho vay do ngân hàng và khách hàng thỏa thuận, nhưng không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố để áp dụng trong từng thời kỳ. Tuy nhiên, đối với khoản vay bằng đô la Mỹ mà doanh nghiệp đề nghị vay vốn ngân hàng để nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu hoặc mua máy móc, thiết bị để sản xuất các mặt hàng phục vụ xuất khẩu, một số ngân hàng băn khoăn lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ do ngân hàng ấn định đối với khách hàng vay có phải tuân theo quy định của Quyết định số 16 hay không? Dưới góc độ pháp lý, lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ do các ngân hàng ấn định đối với khách hàng không bị khống chế bởi lãi suất trần theo cơ chế điều chỉnh lãi suất cơ bản được quy định tại Quyết định số 16 vì các lý do sau đây: Thứ nhất: Theo quy định tại Điều 476 của Bộ luật Dân sự năm 2005, thì lãi suất vay do các bên thỏa thuận, nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại cho vay tương ứng. Thực tế, cho đến nay, NHNN chỉ quy định lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam, chứ chưa quy định lãi suất cơ bản bằng đô la Mỹ hoặc ngoại tệ khác. Thứ hai: Quyết định số 16 chỉ quy định việc điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh không vượt quá 150% lãi suất cơ bản. Do đó, các ngân hàng không có nghĩa vụ phải ấn định lãi suất kinh doanh bằng đô la Mỹ đối với khách hàng theo quy định của Quyết định số 16. Thứ ba: Quyết định số 718/2001/QĐ-NHNN ngày 29/5/2001 của Thống đốc NHNN quy định về cơ chế điều hành lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng (Quyết định số 718) cho đến nay chưa bị sửa đổi, bổ sung hoặc bị thay thế bằng văn bản quy phạm pháp luật khác. Cho nên, Quyết định số 718 vẫn còn hiệu lực và là cơ sở pháp lý để các ngân hàng ấn định lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ đối với khách hàng vay. Thứ tư: Theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có quyền kinh doanh ngành, nghề mà pháp luật không cấm(2). Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp, nên ngân hàng cũng có quyền kinh doanh theo quy định này. Vì vậy, nếu pháp luật không cấm các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ vượt quá 150% lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam do NHNN công bố để áp dụng trong từng thời kỳ, thì ngân hàng và khách hàng vay có quyền thỏa thuận lãi suất cho vay cụ thể. Chính vì lẽ trên, các ngân hàng có quyền ấn định lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ đối với khách hàng vay dựa trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung – cầu vốn tín dụng bằng ngoại tệ ở trong nước. 3. Lãi suất quá hạn Trong cơ chế thị trường, không phải tất cả các doanh nghiệp đều luôn hoạt động kinh doanh có lãi và đủ khả năng trả nợ vay đến hạn cho ngân hàng. Thực tế, không ít doanh nghiệp đã vi phạm cam kết và thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng khi nợ vay đến hạn. Lúc đó, nếu doanh nghiệp có văn bản đề nghị và ngân hàng đánh giá thấy doanh nghiệp có khả năng trả được nợ trong một thời gian nhất định tiếp theo, thì ngân hàng có thể xem xét điều chỉnh kỳ hạn trả nợ hoặc gia hạn nợ với thời hạn trả nợ phù hợp với nguồn trả nợ của doanh nghiệp. Trường hợp hết thời hạn được điều chỉnh hoặc gia hạn nợ mà doanh nghiệp vẫn không trả được nợ, thì ngân hàng có quyền chuyển khoản nợ gốc đó sang nợ vay quá hạn và áp dụng lãi suất quá hạn. Hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng với doanh nghiệp là một dạng của hợp đồng thương mại vì hợp đồng tín dụng được lập thành văn bản, các bên tham gia hợp đồng là pháp nhân hoặc có đăng ký kinh doanh và có mục đích lợi nhuận. Cho nên, hoạt động tín dụng của ngân hàng thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại năm 2005. Việc ngân hàng áp dụng lãi suất quá hạn trên khoản nợ gốc thực tế quá hạn đối với doanh nghiệp là một hình thức chế tài do doanh nghiệp vi phạm hợp đồng tín dụng. Chế tài phạt hợp đồng có mục đích chủ yếu là trừng phạt, giáo dục bên vi phạm ý thức tôn trọng và tuân thủ cam kết trong hợp đồng đã được ký kết. Phạt vi phạm hợp đồng là một quy định tuỳ nghi, chứ không phải là một quy định bắt buộc trong hợp đồng tín dụng. Trường hợp các bên không có thỏa thuận phạt vi phạm, thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bên vi phạm bồi thường thiệt hại. Do đó, nếu hợp đồng tín dụng không quy định lãi suất quá hạn, thì ngân hàng (bên bị vi phạm) chỉ được yêu cầu khách hàng vay (bên vi phạm) trả lãi theo lãi suất trong thời hạn cho vay đã được thỏa thuận trong hợp đồng. Khi các bên có thỏa thuận áp dụng lãi suất quá hạn đối với khoản nợ gốc thực tế quá hạn, thì lãi suất quá hạn không được vượt quá 150% lãi suất cho vay áp dụng trong thời hạn cho vay đã được ký kết hoặc điều chỉnh trong hợp đồng tín dụng(3). Quy định này áp dụng cho cả khoản vay bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ. Hiện nay, có ý kiến cho rằng lãi suất quá hạn cũng là lãi suất kinh doanh vì lãi suất này: (i) Đã bao gồm cả lãi suất cho vay trong hạn và khoản tiền phạt do khách hàng vay không trả được nợ đúng hạn; (ii) Được ấn định để phục vụ mục tiêu lợi nhuận của ngân hàng trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng. Cho nên, lãi suất quá hạn đối với khoản vay bằng đồng Việt Nam không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố để áp dụng trong từng thời kỳ (Quyết định số 16). Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng lãi suất kinh doanh không bao gồm lãi suất quá hạn được quy định tại khoản 2 Điều 11 của Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNN (Quy chế cho vay ban hành kèm theo Quyết định số 1627) vì khoản 1 Điều 1 Quyết định số 16 đã quy định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động, lãi suất cho vay), nên có thể hiểu phần trong ngoặc đơn đã giải thích cho cụm từ “lãi suất kinh doanh”, tức là lãi suất kinh doanh chỉ bao gồm lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Thêm nữa, cho đến nay, chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định hoặc có định nghĩa về lãi suất kinh doanh. Do vậy, lãi suất quá hạn vẫn được áp dụng theo quy định tại khoản 2 Điều 11 của Quy chế cho vay ban hành kèm theo Quyết định số 1627, chứ không thuộc phạm vi điều chỉnh của Quyết định số 16. Liên quan đến lãi suất quá hạn, khoản 5 Điều 474 của Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: Trường hợp hợp đồng vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do NHNN công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ. Do đó, Bộ luật Dân sự năm 2005 và Quy chế cho vay ban hành kèm theo Quyết định số 1627 đã quy định không thống nhất nhau về lãi suất quá hạn. Sự không thống nhất này được thể hiện ở những điểm sau: - Theo quy định nêu trên của Bộ luật Dân sự năm 2005, trường hợp không trả được hoặc trả không đầy đủ nợ đến hạn, khách hàng vay phải trả cho ngân hàng khoản tiền lãi bằng lãi trong hạn cộng với lãi quá hạn. Lãi trong hạn được tính trên dư nợ gốc thực tế giải ngân và theo lãi suất cho vay trong hạn được quy định trong hợp đồng tín dụng. Lãi quá hạn được tính trên dư nợ gốc thực tế quá hạn và theo lãi suất cơ bản do NHNN công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ. Hiện tại, lãi suất cơ bản do NHNN công bố là cơ sở chung để ấn định lãi suất cho vay đối với các loại cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, chứ không có lãi suất cơ bản riêng để ấn định lãi suất cho vay đối với từng loại cho vay. - Quy chế cho vay ban hành kèm theo Quyết định số 1627 không phân chia lãi suất áp dụng đối với khoản nợ gốc thực tế quá hạn bao gồm lãi suất trong hạn và lãi suất quá hạn như quy định nói trên của Bộ luật Dân sự năm 2005, mà cho phép ngân hàng và khách hàng tự thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% lãi suất cho vay trong hạn. Cho nên, khi nợ vay gốc được chuyển sang nợ quá hạn, ngân hàng ấn định và thỏa thuận với khách hàng về mức lãi suất quá hạn cụ thể. ĐÔI ĐIỀU KIẾN NGHỊ (i) Được biết, NHNN và Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam đã có văn bản kiến nghị Quốc hội (thông qua Uỷ ban Thường vụ Quốc hội) xem xét, sửa đổi Điều 474 và Điều 476 của Bộ luật Dân sự năm 2005 theo hướng lãi suất thị trường (lãi suất thoả thuận/tự do hoá lãi suất) nhưng Quốc hội chưa xem xét, sửa đổi hai Điều nêu trên của Bộ luật Dân sự năm 2005. Do đó, theo quy định về áp dụng văn bản quy phạm pháp luật tại khoản 2 Điều 80 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996(4) (Luật này có hiệu lực cho đến hết năm 2008), thì trong khi Quốc hội chưa sửa đổi, quy định tại hai Điều nêu trên của Bộ luật Dân sự năm 2005 (văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên) có hiệu lực pháp lý cao hơn quy định tương ứng của Quy chế cho vay ban hành kèm theo Quyết định số 1627 (văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp dưới) và được áp dụng trong quá trình hoạt động tín dụng, ấn định lãi suất quá hạn của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng. (ii) Quy chế cho vay ban hành kèm theo Quyết định số 1627 được ký ban hành cuối tháng 12 năm 2001. Vào thời điểm đó, NHNN đang thực hiện điều hành cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng đối với khách hàng mà theo đó, tổ chức tín dụng được xác định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam trên cơ sở cung – cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm đối với khách hàng(5). Do đó, quy định về lãi suất quá hạn tại khoản 2 Điều 11 của Quy chế cho vay ban hành kèm theo Quyết định số 1627 là phù hợp với cơ chế điều hành lãi suất của NHNN lúc bấy giờ (Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30/5/2002 của Thống đốc NHNN). Song, kể từ ngày 19/5/2008 cho đến nay, lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam theo cơ chế thỏa thuận đã được thay thế bằng cơ chế lãi suất trần (không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố). Vì vậy, việc NHNN sửa đổi quy định về lãi suất quá hạn tại khoản 2 Điều 11 của Quy chế cho vay ban hành kèm theo Quyết định số 1627 không chỉ bảo đảm phù hợp với quy định của văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước cấp trên ban hành (Bộ luật Dân sự năm 2005), mà còn bảo đảm sự nhất quán giữa các văn bản quy phạm pháp luật do NHNN ban hành. (iii) Điều khoản về lãi suất quá hạn là một trong những điều khoản quan trọng của hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng với khách hàng vay. Cho nên, nếu ngân hàng và khách hàng vay thỏa thuận và áp dụng lãi suất quá hạn phù hợp với quy định của pháp luật, thì nó là cơ sở để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên. Ngược lại, lãi suất quá hạn được thỏa thuận và áp dụng không phù hợp với quy định của pháp luật, thì hợp đồng tín dụng có thể bị vô hiệu một phần do quy định về lãi suất quá hạn vi phạm quy định của pháp luật (chẳng hạn như áp dụng lãi suất quá hạn vượt quá mức tối đa mà NHNN cho phép). Hiện nay, do còn có các ý kiến khác nhau về lãi suất quá hạn theo cơ chế điều hành lãi suất cơ bản được quy định tại Quyết định số 16, nên một số ngân hàng vẫn băn khoăn, lúng túng khi xác định lãi suất quá hạn đối với các khoản vay bằng đồng Việt Nam. Vì vậy, thiết nghĩ NHNN nên ban hành văn bản hướng dẫn việc ấn định lãi suất quá hạn để giải tỏa những băn khoăn, thắc mắc nêu trên, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thống nhất thực hiện. ————————— (1) Quy định này vẫn được kế thừa tại khoản 1 Điều 83 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 (có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2009). (2) Khoản 1 Điều 7 Luật Doanh nghiệp năm 2005. (3) Khoản 2 Điều 11 Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNN. (4) Quy định này không thay đổi khi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2009. (5) Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30/5/2002 của Thống đốc NHNN về việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng đối với khách hàng

Công ty Luật Bắc Việt Luật
P2802, tầng 28, tòa nhà Central  Fied , Trung Kính, Trung  Hòa, Cầu Giấy, Hà nội
Tel: 87696666-0386319999
Hotline: 0938-188-889 – 0913753918
www.bacvietluat.vn - www.tuvanluat.net - www.sanduan.vn"HÃY NÓI VỚI LUẬT SƯ ĐIỀU BẠN CẦN"

  • TAG :

Tin liên quan

Danh mục

Loading...

Bài xem nhiều

Bài nổi bật