Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự là một quá trình gồm hoạt động của tòa án, viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng trong việc cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ làm cơ sở cho yêu cầu, phản đối yêu cầu của mình và phán quyết của tòa án trên cơ sở quy định của pháp luật.
Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự có ba đặc điểm cơ bản:
- Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự là một quá trình nhận thức diễn ra suyên suốt vụ án dân sự, được bắt đầu khi có quyết định thụ lý đơn khởi kiện cho đến khi tòa án ra phán quyết. Khởi đầu là việc chứng minh của nguyên đơn cho yêu cầu của mình thông qua đơn khởi kiện, tiếp đến là hoạt động chứng minh của bị đơn bác yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu phản tố (nếu có), hoạt động chứng minh của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, của Viện kiểm sát (nếu có)… và kết thúc khi tòa án chứng minh cho phán quyết của mình thông qua một bản án có giá trị bắt buộc thi hành.
- Bản chất của chứng minh chính là việc sử dụng chứng cứ.
Hai yếu tố cấu thành vụ án dân sự là yếu tố chủ quan (đương sự) và yếu tố khách quan (bao gồm đối tượng – mục đích khởi kiện và nguyên nhân – cách thức bảo vệ quyền của các chủ thể trước tòa án). Hoạt động chứng minh được xếp vào các yếu tố thuộc mặt khách quan của vụ án. Điều này có nghĩa là yếu tố cấu thành vụ án đã vốn có, vốn đã tồn tại, nay chỉ đi tìm lại, diễn đạt lại một cách đầy đủ nhất, đúng đắn nhất. Hay nói cách khác, hoạt động chứng minh là hoạt động thông qua việc sử dụng chứng cứ để tái hiện lại sự thật khách quan của vụ án.
Là một yếu tố quan trọng nên khái niệm chứng cứ được luật tố tụng dân sự của nhiều nước đề cập đến. Cá biệt còn có một số nước xây dựng luật về chứng cứ thể hiện sự quan trọng của vấn đề này. Luật tố tụng dân sự Nhật Bản định nghĩa:
“Chứng cứ là một tư liệu thông qua đó một tình tiết được tòa án công nhận và là một tư liệu, cơ sở thông qua đó tòa án được thuyết phục là một tình tiết có tồn tại hay không?” hoặc theo điều 401 Luật chứng cứ của Mỹ định nghĩa
“Chứng cứ là những gì mà hàm chứa trong nó sự tồn tại của bất cứ một sự thực nào mà bản thân sự hàm chứa đó ảnh hưởng tới việc xác định được một hành động hơn hoặc kém hơn”. Trong Luật TTDS 2004, khái niệm chứng cứ lần đầu tiên được ghi nhận một cách tương đối đầy đủ tại Điều 81, theo đó:
“Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do bộ luật này quy định mà tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay phản đối của đương sự là có căn cứ hợp pháp hay không cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự”.
Quá trình chứng minh không có gì khác ngoài việc sử dụng chứng cứ đúng đắn (thỏa mãn ba yêu cầu về tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp) bao gồm bốn giai đoạn khác nhau là cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ. Các giai đoạn này có mối liên hệ mật thiết với nhau, chỉ có giai đoạn trước mới có giai đoạn sau, và giai đoạn sau sẽ là cơ sở để đánh giá tính đúng đắn và triệt để của giai đoạn trước. Phải có hoạt động thu thập, cung cấp chứng cứ thì mới phát sinh hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ và kết quả của họat động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ sẽ phát sinh những nhận thức từ vụ án dân sự, nhận thức này có đúng đắn, khách quan và toàn diện hay không hoàn toàn phụ thuộc vào việc cung cấp, thu thập chứng cứ có đầy đủ và đúng hay không. Bốn giai đoạn này kéo dài, nối tiếp và đan xen nhau, không thể tách bạch cơ học từ thời điểm nào đến thời điểm nào là giai đoạn cung cấp, thu thập, nghiên cứu hay đánh giá chứng cứ. Nhưng có thể nhận thấy rằng những giai đoạn này kéo dài suyên suốt quá trình giải quyết vụ án dân sự, nó chỉ kết thúc khi tòa án ra phán quyết. Mặc dù có thể tòa án cấp dưới đã ra quyết định giải quyết vụ án nhưng bản án này lại được giải quyết tiếp theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm thì lại phát sinh hoạt động chứng minh mới độc lập với hoạt động chứng minh trước đây.
- Chủ thể của hoạt động chứng minh rất đa dạng
Như đã phân tích ở trên, chứng minh là làm cho rõ là đúng, là có thật. Trong một vụ án cụ thể có rất nhiều ý kiến cần phải được chứng minh là đúng, là có thật đồng nghĩa với việc chủ thể thực hiện hoạt động chứng minh là đa dạng. Nguyên đơn chứng minh cho yêu cầu của mình, bị đơn chứng minh cho bác yêu cầu, yêu cầu phản tố (nếu có) tòa án chứng minh cho phán quyết của mình, Viện kiểm sát chứng minh cho kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của mình… Ngoài ra, khi đương sự không đủ khả năng tham gia tố tụng hoặc không hiểu biết về pháp luật, không có kinh nghiệm tố tụng họ có thể nhờ người khác thay mình tham gia tố tụng từ đó phát sinh ra các chủ thể khác tham gia tố tụng như người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự… họ có quyền và nghĩa vụ không giống nhau xuất phát từ vị trí tố tụng cũng như thỏa thuận giữa họ và đương sự nhưng đây cũng là những chủ thể của họat động chứng minh.
1. Đương sự – người phát động và giới hạn hoạt động chứng minh
Chứng minh là một quá trình nhận thức kéo dài suyên suốt vụ án với bốn giai đoạn kế tiếp nhau liên tục là thu thập, cung cấp, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ, giai đoạn trước là tiền đề của giai đoạn sau, giai đoạn sau củng cố và đánh giá giai đoạn trước. Tính liên tục của bốn giai đoạn được khởi động bằng việc nguyên đơn nộp đơn khởi kiện. Đơn khởi kiện chính là biểu hiện rõ nét nhất của quyền đi kiện (tố quyền) của cá nhân, cơ quan tổ chức. Khi pháp luật thừa nhận cho một chủ thể những quyền năng nhất định cũng đồng thời phải đảm bảo cho quyền năng ấy được thực hiện thông qua một thủ tục tố tụng và nguyên đơn phải cụ thể hóa quyền đó bằng một đơn khởi kiện để yêu cầu bảo vệ, đây chính là
“gạch nối” giữa luật nội dung và luật hình thức. Khi được thụ lý, đơn khởi kiện sẽ làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ được quy định cụ thể trong BLTTDS buộc nguyên đơn không thể tự xử để bảo vệ quyền lợi của mình, buộc bị đơn dù không muốn cũng bị xét xử đồng thời với đó ràng buộc tòa án có thẩm quyền phải giải quyết yêu cầu của nguyên đơn. Trong quá trình chứng minh nói chung lại diễn ra nhiều quá trình chứng minh nhỏ như chứng minh cho yêu cầu của nguyên đơn, bác yêu cầu của bị đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu của người thứ ba… nhưng có một điểm chung là tất cả các yêu cầu đó đều bắt đầu phát sinh từ đương sự hay đương sự là người bắt đầu hoạt động chứng minh.
Theo nguyên tắc chung, khi nguyên đơn nộp đơn khởi kiện thì nội dung của đơn kiện chỉ coi là hợp lệ khi có
“tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp” (điểm i khoản 2 Điều 164 BLTTDS), nếu không đáp ứng điều kiện này thì đơn khởi kiện sẽ không được tòa án chấp nhận và tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện theo căn cứ tại Điều 169 BLTTDS. Như thế, hoạt động chứng minh đã được bắt đầu và hoạt động chứng minh này được thực hiện bởi nguyên đơn. Khi bị đơn, người thứ ba có yêu cầu thì cũng phải chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp theo nguyên tắc tại điều 79 BLTTDS:
“1. Đương sự có yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ để chứnh minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp.
2. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh.”
Bản chất của quá trình tố tụng là giải quyết những mâu thuẫn, bất đồng giữa hai bên nguyên – bị, lợi ích của một bên sẽ đồng thời là nghĩa vụ của bên kia. Vì thế cần thiết phải có một bên thứ ba trung lập, khách quan đứng ra giải quyết và điều hòa lợi ích giữa các bên – trọng trách này được giao cho nhà nước và thể hiện cụ thể là tòa án có thẩm quyền với quyền lực cưỡng chế cũng như tính trung lập sẽ đảm bảo được quyền lợi hợp pháp của các bên, duy trì trật tự và ổn định của xã hội. Tuy vậy, trách nhiệm của tòa án cũng chỉ được thực hiện khi đương sự có yêu cầu, điều này thể hiện rõ nét nhất quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự. Trong suốt quá trình giải quyết vụ án nhận thức của tòa án cũng dựa trên hoạt động chứng minh của đương sự. Là người đưa ra yêu cầu, phát động tranh chấp nên thông thường đương sự là người bắt đầu của hoạt động chứng minh và cũng chính từ yêu cầu của đương sự sẽ giới hạn hoạt động chứng minh không chỉ của đương sự mà còn của tòa án và những chủ thể khác của hoạt động chứng minh.
Ví dụ khi nguyên đơn khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng mua bán nhà. Nguyên đơn phải chứng minh mình có căn cứ cho yêu cầu hủy hợp đồng. Nếu bị đơn không đồng ý, họ sẽ phải chứng minh điều ngược lại. Tòa án cũng chỉ cần kiểm tra hợp đồng đã được xác lập là có hiệu lực pháp luật hay không? Hoạt động chứng minh trong vụ án này sẽ bắt đầu khi nguyên đơn nộp đơn khởi kiện và được tòa án thụ lý. Trong đơn khởi kiện, nguyên đơn sẽ thực hiện họat động chứng minh thông qua việc cung cấp những chứng cứ như hợp đồng vô hiệu, bị đơn vi phạm nghĩa vụ đã cam kết… Toàn bộ quá trình chứng minh sẽ xoay quanh hợp đồng mua bán nhà giữa hai bên nguyên – bị. Mặc dù bị đơn có thể có yêu cầu phản tố như yêu cầu bồi thường thiệt hại… nhưng nó cũng có liên quan mật thiết với việc chứng minh hợp đồng trên có hay không hiệu lực pháp luật.
2. Đương sự – chủ thể chứng minh chủ yếu
Khi nguyên đơn sử dụng quyền đi kiện (hành xử tố quyền) của mình thì cũng là lúc vụ án được phát động kéo theo đó là rất nhiều các chủ thể khác nhau bao gồm hai loại chính là người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng. Mỗi người một chức năng, nhiệm vụ khác nhau và trong đó, hầu hết đều liên quan đến hoạt động chứng minh nhưng hoạt động chứng minh của đương sự là chủ yếu bởi một số điểm như sau:
2.1. Đương sự là người thực hiện hầu hết công việc thu thập và cung cấp chứng cứ
Nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của đương sự là một nghĩa vụ có tính lịch sử. Kế thừa điều đó, BLTTDS 2004 đã quy định đương sự là người thu thập cung cấp chứng cứ chủ yếu, tòa án chỉ tham gia thu thập trong một số ít trường hợp như như lấy lời khai của người làm chứng khi xét thấy cần thiết (khoản 1 Điều 87 BLTTDS), đối chất khi thấy có sự mâu thuẫn trong lời khai của các đương sự, người làm chứng (khoản 1 Điều 88 BLTTDS), định giá tài sản trong trường hợp các bên thỏa thuận mức giá thấp nhằm mục đích trốn thuế hoặc giảm mức đóng án phí (điểm b khoản 1 Điều 92 BLTTDS )
.Còn lại, các biện pháp thu thập chứng cứ khác được quy định tại chương VII BLTTDS – chứng cứ và chứng minh, đều thuộc về đương sự như: đương sự có quyền được khai báo (Điều 86), yêu cầu lấy lời khai của người làm chứng (Điều 87), yêu cầu đối chất (Điều 88), giám định, giám định bổ xung (Điều90), yêu cầu định giá tài sản (Điều 92), yêu cầu cơ quan tổ chức, cá nhân đang nắm giữ giao chứng cứ (điểm b khoản 2 Điều 58)… Đương sự có thể thực hiện quyền, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của mình thông qua hai cách là tự mình thu thập hoặc nhờ tòa án thu thập hộ khi đủ điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 85:
“Trong trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu thì Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp sau đây để thu thập chứng cứ:
a) lấy lời khai của người làm chứng
b) Quyết định định giá tài sản
c) Xem xét, thẩm định tại chỗ
đ) ủy thác thu thập chứng cứ
e) Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự”
Nhìn chung, việc thu thập chứng cứ là trách nhiệm của đương sự đối với yêu cầu của mình, họ có sự chủ động trong các thao tác thu thập, yêu cầu thu thập. Tuy nhiên không thể nói là việc thu thập không có sự can thiệp của nhà nước bởi nếu không can thiệp sẽ gây ra tình trạng lộn xộn và đôi khi chứng cứ thu thập được không có giá trị pháp lý. BLTTDS đã quy định đầy đủ trình tự và điều kiện để đương sự thực hiện quyền năng này, đây chính là vấn đề về thủ tục. Khi vi phạm về thủ tục luật định thì chứng cứ do đương sự thu thập được cũng sẽ không được chấp nhận, tạo ra tính công bằng giữa các bên.
Trong giai đoạn cung cấp chứng cứ thì đương sự chính là người cung cấp chứng cứ cho tòa án. Đây chính là hoạt động giao nộp chứng cứ vào hồ sơ vụ án, chứng cứ nhiều hay ít sẽ giới hạn việc tranh luận giữa các bên, chứng cứ càng cụ thể, xác đáng bao nhiêu thì việc tranh luận và trách nhiệm của tòa án càng đơn giản bấy nhiêu. Quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của đương sự được quy định thành một nguyên tắc tố tụng
“ Đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho tòa án”“Người khởi kiện phải nộp kèm theo đơn khởi kiện tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp”. Bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền cung cấp chứng cứ khi tòa án thông báo về việc khởi kiện của nguyên đơn
“Trong thời hạn mười năm ngày kể từ ngày nhận được thông báo, người được thông báo phải nộp cho tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo, nếu có” (khoản 1 Điều 175). Trong quá trình giải quyết vụ án đương sự có quyền cung cấp chứng cứ ở bất kỳ giai đoạn nào, nếu không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ sẽ phải chịu những hậu quả về việc đó
“Trong quá trình tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho tòa án; Nếu đương sự không nộp hoặc nộp không đầy đủ thì phải chịu hậu quả của việc không nộp hoặc không nộp đầy đủ đó…” (khoản 1 Điều 84 ). Tại phiên tòa sơ thẩm
“Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền bổ sung chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp” (khoản 3 Điều 221). Đương sự còn có thể giao nộp chứng cứ tại cấp phúc thẩm
“kèm theo đơn kháng cáo là tài liệu, chứng cứ bổ xung nếu có để chứng minh cho kháng cáo của mình là có căn cứ và hợp pháp”, tại phiên tòa phúc thẩm
“đương sự, Kiểm sát viên có quyền xuất trình bổ sung chứng cứ” (khoản 3 Điều 271). Trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của pháp luật, đương sự cũng có thể giao nộp chứng cứ bổ sung tại tòa án hoặc viện kiểm sát để bảo vệ cho quyền lợi của mình. Việc quy định đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và thời điểm cung cấp mở rộng tại tất cả quá trình giải quyết là tạo điều kiện để đương sự có thể phát huy hết khả năng của mình trong việc cung cấp chứng cứ. (Điều 6) áp dụng chung cho cả các cơ quan tổ chức khởi kiện bảo vệ quyền lợi cho người khác. Người khởi kiện phải thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ ngay khi nộp đơn khởi kiện tại tòa án theo quy định tại Điều 165 BLTTDS
2.2. Đương sự là người tham gia tích cực trong hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ
Một trong những lý do để xếp hai hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ cùng một giai đoạn chứng minh là vì không thể tách bạch một cách cơ học rõ ràng từ thời điểm nào đến thời điểm nào là giai đoạn nghiên cứu và đánh giá chứng cứ. Hai hoạt động này đan xen, diễn ra trong suốt quá trình giải quyết vụ án đòi hỏi không những phải có hệ thống chứng cứ đầy đủ mà còn đòi hỏi chủ thể nghiên cứu, đánh giá phải nhìn nhận một cách toàn diện, đặt hệ thống chứng cứ trong mối liên hệ biện chứng, tác động lẫn nhau. Yêu cầu đặt ra là phải loại bỏ được những yếu tố mang tính “ngẫu nhiên”, tìm ra các yếu tố “tất nhiên” – mang tính quy luật nội tại mới có thể nhận thức chính xác vụ án.
Thông thường, hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ là của thẩm phán phụ trách giải quyết vụ án hoặc các thành viên của hội đồng xét xử và phải tuân theo nguyên tắc đánh giá chứng cứ được quy định tại Điều 96 BLTTDS:
“1. Việc đánh giá chứng cứ phải khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác.
2. Tòa án phải đánh giá từng chứng cứ, sự liên quan giữa các chứng cứ và khẳng định giá trị của từng chứng cứ.”
Quy định này là cần thiết vì tòa án là cơ quan phán xử đòi hỏi việc xem xét phải thật sự công bằng và không thiên vị bên nào. Nhưng để tòa án nhận biết được nhanh nhất, khách quan nhất thì các đương sự và một số chủ thể khác cũng có thể tham gia vào hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ và thực tế đã cho thấy, rất nhiều vụ án hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ của tòa án đạt hiệu quả cao lại dựa trên kết quả nghiên cứu, đánh giá của đương sự. Điều này thể hiện tính tích cực của đương sự trong hoạt động này.
Liên quan đến hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ trong tố tụng dân sự, đương sự có một số quyền như:
Đương sự có quyền
“được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất trình hoặc do tòa án thu thập” (điểm d khoản 2 Điều 58). Khi có quyền được biết này, đương sự sẽ có sự chủ động cao trong việc nghiên cứu, đánh giá chứng cứ cũng như tìm kiếm những bằng chứng để phủ nhận quan điểm của đối phương.
Tại phiên tòa sơ thẩm hoặc phúc thẩm đương sự có quyền và nghĩa vụ tham gia phiên tòa (Điều 199, 200, 201), được nghe lời trình bày của các bên (Điều 221), được trình bày quan điểm ý kiến của mình (Điều 197), được tham gia hỏi tại phiên tòa (Điều 222) và đặc biệt BLTTDS đã dành một phần là mục 4 chương XIV để quy định về việc tranh luận giữa các đương sự, đây là sự thể hiện rõ ràng nhất về vai trò của đương sự trong việc nghiên cứu, đánh giá chứng cứ cũng như trong quá trình chứng minh. Đây luôn là phần hấp dẫn nhất của một phiên tòa khi mà các bên được tự do thể hiện ý chí, quan điểm của mình, vận dụng những hiểu biết pháp lý và kinh nghiệm tố tụng để bảo vệ quan điểm đó. Sự tranh luận này có hệ quả trực tiếp đến phán quyết của tòa án giải quyết vụ việc.
2.3. Vai trò chứng minh nổi bật của đương sự trong sự so sánh với các chủ thể khác của hoạt động chứng minh
Chủ thể của hoạt động chứng minh là những người bằng hành vi của mình tham gia vào quá trình xác minh có hay không những tình tiết khách quan làm cơ sở cho yêu cầu hoặc phản đối yêu cầu của các bên trong quá trình giải quyết vụ án. Chủ thể của hoạt động chứng minh không chỉ có các đương sự mà còn nhiều người khác như người đại diện cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích của người khác, lợi ích công cộng, Viện kiểm sát và Tòa án. Xuất phát từ vị trí, vai trò của những chủ thể này là khác nhau khi tham gia quan hệ tố tụng nên vai trò chứng minh và phạm vi chứng minh của họ cũng khác nhau tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng cụ thể. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng dù trực tiếp hay gián tiếp thì vai trò chứng minh của các chủ thể này cũng phái sinh từ vai trò chứng minh của đương sự.
* Người đại diện của đương sự
Người đại diện của đương sụ trong tố tụng dân sự là người thay mặt cho đương sự trong việc xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho đương sự. Người đại diện trong tố tụng dân sự bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền.
Theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 thì người đại diện theo pháp luật bao gồm có cha mẹ đối với con chưa thành niên, người giám hộ đối với người được giám hộ, người được tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chủ hộ gia đình đối với gia đình, tổ trưởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác (Điều 142 BLDS), ngoài ra cơ quan tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích của người khác cũng là người đại diện theo pháp luật cho người được khởi kiện (Điều 73 BLTTDS), người được tòa án chỉ định để đại diện cho đương sự tham gia tố tụng (Điều 76 BLTTDS).
Người đại diện theo ủy quyền cũng là người thay mặt cho đương sự thực hiện những quyền và nghĩa vụ tố tụng nhưng thông qua một giấy ủy quyền thể hiện ý chí của người đại diện và người được đại diện, phạm vi đại diện được ghi nhận một cách cụ thể trong giấy ủy quyền đó. Có thể đại diện một phần hay toàn bộ nhưng trong vụ án ly hôn, đương sự không thể ủy quyền cho người khác tham gia thay mình.
Quyền và nghĩa vụ của người đại diện cho đương sự trong tố tụng dân sự và trong hoạt động chứng minh được thực hiện theo nguyên tắc quy định tại điều 74 BLTTDS:
“1. Người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự mà mình đại diện.
2. Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự theo nội dung văn bản ủy quyền.”
Khi tham gia vào hoạt động chứng minh, người đại diện có toàn quyền trong việc đề ra các yêu cầu, phản yêu cầu và chứng minh cho những ý kiến đó. Nhưng dù là đại diện theo pháp luật hay đại diện theo ủy quyền của đương sự thì vai trò chứng minh của họ cũng phát sinh sau khi phát sinh vai trò chứng minh của đương sự. Đương sự không thể hoặc có hạn chế nhất định không thực hiện được quyền và nghĩa vụ của mình thì theo quy định của pháp luật họ có thể nhờ đến sự giúp đỡ của người đại diện hoặc tòa án sẽ chỉ định người đại diện cho họ. Hoạt động chứng minh của người đại diện là
“thay mặt” đương sự, hành vi chứng minh của họ cũng chính là hành vi của đương sự và hướng đến việc bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự. Khi tư cách đương sự chấm dứt thì tư cách đại diện của họ cũng chấm dứt.
Như vậy, so với đương sự, hoạt động chứng minh của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp gặp nhiều khó khăn hơn nên hiệu quả chứng minh hạn chế hơn. Còn đương sự là chủ thể của quan hệ tranh chấp, lợi ích của họ gắn với đó, họ là người hiểu nhất về quyền và nghĩa vụ của mình, về nguyên nhân phát sinh tranh chấp, về thực trạng quan hệ pháp luật của mình… nên hoạt động chứng minh sẽ dễ dàng và hiệu quả hơn.
* Người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được đương sự nhờ và tòa án chấp nhận để tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (khoản 1 Điều 64 BLTTDS). Những người này có thể là luật sư hoặc bất cứ chủ thể nào đủ điều kiện mà đương sự tin tưởng. Đây cũng là một chủ thể của hoạt động chứng minh, họ có thể tham gia vào vụ án ở bất cứ giai đoạn nào, được tham gia phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Liên quan đến hoạt động chứng minh, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền:
“2. Xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho tòa án, nghiên cứu hồ sơ vụ án và được sao chụp những tài liệu cần thiết trong hồ sơ để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
5. Giúp đương sự về mặt pháp lý liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ” (Điều 64 BLTTDS).
Trong trường hợp này, vai trò chứng minh của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chỉ dừng lại ở việc giúp đỡ đương sự khi được
“nhờ”, đương sự vẫn là người đề ra việc chứng minh, yêu cầu hoặc phản yêu cầu nhưng do có hạn chế về mặt pháp lý cũng như kinh nghiệm tố tụng nên họ phải cầu cứu đến sự hỗ trợ, những người này chỉ có quyền chứ không có nghĩa vụ chứng minh, việc chứng minh được hay không không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của họ. Người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự có thể không có mặt tại phiên tòa ( Điều 203 BLTTDS ).
Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, vị trí pháp lý của người bảo vệ quyền lợi của đương sự không có gì khác so với đương sự vì họ cùng thuộc nhóm người tham gia tố tụng. Họ không có quyền thay mặt đương sự mà chỉ có thể giúp đỡ đương sự. Suy cho cùng, trong hoạt động chứng minh đương sự vẫn tự mình quyết định, tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ. Điều này cũng là một minh chứng cụ thể cho vai trò nổi bật của đương sự.
* Viện kiểm sát
Viện kiểm sát tham gia quá trình chứng minh thông qua hai hoạt động là tham gia phiên tòa và kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
Viện kiểm sát tham gia phiên tòa
“đối với những vụ án do tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại” (khoản 2 Điều 2 ) cụ thể là những vụ án do tòa án thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 85 hoặc những vụ án mà tòa án tự mình tiến hành một hoặc một số biện pháp thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 87, khoản 2 Điều 88, điểm b khoản 1 Điều 92. Khi đó, tòa án nhân dân phải chuyển hồ sơ vụ án cho viện kiểm sát nghiên cứu (trừ trường hợp Viện kiểm sát cùng cấp với tòa án cấp phúc thẩm đã kháng nghị phúc thẩm và Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm đã kháng nghị theo theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc theo thủ tục tái thẩm)[25] trong một thời gian luật định để tiến hành xem xét.
Viện kiểm sát có quyền kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm khi xét thấy có căn cứ, khi đó viện kiểm sát phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 251, khoản 5 Điều 287 BLTTDS, có quyền nghiên cứu hồ sơ (Điều 262), tham gia phiên tòa (khoản 2 Điều 264), có quyền phát biểu ý kiến (điểm b khoản 1 Điều 271, khoản 1 Điều 295, Điều 310)…
Như vậy, với hành vi kháng nghị Viện kiểm sát cũng tham gia hoạt động chứng minh một cách hết sức tích cực. Tuy nhiên, đây là nghĩa vụ của Viện kiểm sát do luật định, sau khi đương sự thực hiện hoàn tất quyền và nghĩa vụ của mình thì trong nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật, Viện kiểm sát xét thấy việc xét xử của tòa án là chưa công bằng nên thực hiện quyền kháng nghị của mình. Cũng tương tự, khi đương sự có yêu cầu, khiếu nại đối với việc tòa án thu thập chứng cứ thì để đảm bảo khách quan, Viện kiểm sát phải tham gia để bảo vệ quyền lợi của các bên cũng như pháp chế của nhà nước – đây là một nghĩa vụ phái sinh vì nếu đương sự không thực hiện hoạt động chứng minh thì viện kiểm sát cũng không thể thực hiện hoạt động chứng minh của mình.
* Tòa án
Để nghiên cứu vai trò chứng minh của tòa án cần nhận thức rõ thái độ cụ thể của tòa án khi tiến hành tố tụng dân sự. Tòa án – thể hiện cụ thể trong một vụ án dân sự là thẩm phán tiến hành giải quyết vụ án đó giữ thái độ trung lập (bởi đây là những tranh chấp mang tính chất
“tư”), đề ra đối tượng chứng minh và đốc thúc, hỗ trợ hoạt động chứng minh của các bên đương sự. Hoạt động chứng minh của tòa án chủ yếu dựa trên sự chứng minh của đương sự. Khi đương sự trình bày sự kiện, xuất nạp giấy tờ, yêu cầu của mình và liên hệ trực tiếp đến yêu cầu đó bằng những chứng cứ, kết quả sẽ tùy thuộc vào việc có hay không những bằng cớ cụ thể. Như vậy, mục đích của việc chứng minh là khác nhau. Trong khi tòa án phải chứng minh tính khách quan trong vụ án, phán quyết đưa ra phải công bằng với cả hai bên trong phạm vi hoạt động chứng minh của họ thì đương sự lại chứng minh cho yêu cầu của mình cũng như hoàn toàn có thể phủ nhận yêu cầu hay phản yêu cầu của đương sự bên kia.
Vai trò chứng minh của tòa án thể hiện ở một số quyền và nghĩa vụ như: tự mình tiến hành thu thập chứng cứ trong một số trường hợp quy định tại mục 1.2 phần IV nghị quyết số 04/2005/NQ – HĐTP ngày 19/9/2005 của HĐTPTANDTC về chứng cứ và chứng minh. Yêu cầu đương sự nộp bổ sung chứng cứ khi
“xét thấy chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc dân sự chưa đủ cơ sở để giải quyết” (khoản 1 Điều 85). Theo yêu cầu của đương sự tòa án sẽ quyết định các biện pháp thu thập chứng cứ như định giá tài sản, lấy lời khai của người làm chứng, quyết định trưng cầu giám định, giám định bổ sung, đối chất… có quyền nghiên cứu, đánh giá chứng cứ theo điều 96, 97 BLTTDS, đây là điều hiển nhiên vì tòa án là người tiến hành hoạt động lập hồ sơ vụ án cũng như căn cứ vào đó để giải quyết. Tại phiên tòa, HĐXX có quyền hỏi những người tham gia phiên tòa như đương sự, người làm chứng…
Hoạt động chứng minh của tòa án chủ yếu trong giai đoạn nghiên cứu, đánh giá chứng cứ mà những chứng cứ này là do đương sự cung cấp. Như đã làm rõ, không có giai đoạn thu thập, cung cấp chứng cứ thì cũng sẽ không có giai đoạn nghiên cứu đánh giá chứng cứ. Tuy nhiên cũng không thể nào nói rằng hoạt động chứng minh do tòa án và đương sự thực hiện mỗi người một nửa vì đương sự cũng thực hiện việc nghiên cứu đáng giá chứng cứ tại phiên tòa cũng như được quyền biết, sao chép… tạo cơ sở cho việc tranh luận. Tòa án cũng thu thập chứng cứ mặc dù có hạn chế nhưng việc hỗ trợ đương sự thu thập chứng cứ được thể hiện rõ ràng. Đây là những hoạt động xen kẽ nhau, bổ sung cho nhau nhưng vai trò của đương sự thể hiện rõ ràng hơn trong việc tự bảo vệ quyền lợi của mình – bản chất của tố tụng dân sự. Việc đương sự có chứng minh được hay không sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến phán quyết của tòa án
“lý luận và thực tiễn việc giải quyết các vụ việc dân sự của tòa án đã cho thấy, việc không chứng minh được một sự kiện liên quan đến vụ việc dân sự có thể kéo theo việc ra một quyết định không có cơ sở làm sâm phạm đến quyền lợi của các bên đương sự không hoàn thành được nghĩa vụ chứng minh của họ”. Như vậy, vai trò chứng minh của đương sự rõ nét hơn tòa án. Hoạt động chứng minh của đương sự là cơ sở cho hoạt động chứng minh của tòa án và bản án là một sự ghi nhận lại kết quả quá trình chứng minh của đương sự.
3. Những giải pháp cụ thể để hiện thực các quy định của pháp luật về vai trò chứng minh của đương sự
Trong quá trình nghiên cứu BLTTDS 2004 về vai trò chứng minh của đương sự có thể nhận thấy một số điểm còn hạn chế. Dưới đây xin đi vào chỉ rõ những hạn chế đó đồng thời đưa ra những giải pháp cụ thể để giải quyết
3.1 Tạo điều kiện để đương sự có thể tiếp cận, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ
Thứ nhất, theo quy định của bộ luật TTDS hiện hành thì các đương sự có quyền
“được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất trình hoặc do tòa án thu thập” (điểm d khoản 2 Điều 58). Tuy nhiên, trên thực tế quyền quan trọng này của đương sự rất khó có thể thực hiện được. Thông thường thì chỉ khi nguyên đơn khởi kiện thì các tài liệu chứng cứ và đơn khởi kiện được thông báo cho phía bị đơn, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được biết (Điều 174 – BLDS) và từ đó họ sẽ có văn bản trả lời (Điều 175 – BLDS). Còn trong quá trình tiến hành giải quyết vụ án dân sự khi các bên xuất trình chứng cứ mới hay những chứng cứ do tòa án thu thập được thì các bên đương sự chỉ có
“quyền được biết” thông qua hoạt động sao chụp tài liệu, chứng cứ ở tòa án. Nhưng chính quyền được biết này lại mang tính chất chung chung khi không quy định một cách cụ thể ai là người phải thông báo cho đương sự khi có những chứng cứ mới được đưa ra. Khi có yêu cầu sao chụp phải có đơn yêu cầu và trong đơn
“phải ghi cụ thể những tài liệu, chứng cứ mà mình cần ghi chép, sao chụp”. Khi đương sự đã không biết những chứng cứ, tài liệu do bên kia cung cấp thì làm sao biết được mình cần sao chụp những gì? Đây là một quy định không thực tế. Đặt trong hoàn cảnh cụ thể tại Việt Nam khi mà trình độ hiểu biết còn thấp việc hiểu biết về luật TTDS còn hạn chế nên không thể nào biết cũng như thực hiện quyền này của mình. Cá biệt trong nhiều trường hợp chứng cứ được cung cấp tại cấp phúc thẩm, các bên đương sự còn lại không thể có thời gian thu thập những chứng cứ để phản bác lại lập luận dựa trên chứng cứ mới của bên kia gây bất lợi cho họ
Chính vì vậy, BLDS nên tiếp thu một số kinh nghiệm của các nước khác trên thế giới như Pháp, Liên Bang Nga cũng như pháp luật tố tụng dân sự trong một số thời kỳ ở nước ta về việc quy định bắt buộc các bên đương sự khi cung cấp một chứng cứ mới cho tòa án để giải quyết yêu cầu của mình thì đồng thời với đó phải thông báo bằng văn bản hoặc có thể photo một bản cung cấp cho bên còn lại – Đây được gọi là nguyên tắc đối tịch[36]. Nguyên tắc này vẫn có thể dẫn đến tình trạng bên được thông báo cố tình phủ nhận việc thông báo đó gây khó khăn cho hoạt động tố tụng. Nên các văn bản hoặc tài liệu photo này sẽ được chuyển cho bên còn lại thông qua tòa án – một cơ quan nhà nước có hoạt động chặt chẽ sẽ đảm bảo được tính nhanh chóng và quyền lợi của các bên. Nếu bên cung cấp chứng cứ cố tình không cung cấp bản sao hoặc văn bản thông báo cho bên còn lại thì có thể áp dụng biện pháp phạt tiền để cưỡng chế. Thời gian thông báo do thẩm phán ấn định tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể vì có thể thời gian chuẩn bị xét xử còn lại ngắn nhưng cần giới hạn trong khoảng từ 1 – 5 ngày. Đối với những trường hợp đương sự cung cấp chứng cứ mới tại cấp phúc thẩm theo quy định tại khoản 3 Điều 271 BLTTDS cần có quy định bổ xung là các chứng cứ mới này trước đó đương sự
“không biết” hoặc
“không thể biết” để tránh trường hợp đương sự cố tình dấu diếm chứng cứ không cung cấp nhằm kéo dài quá trình tố tụng hoặc để gây bất lợi cho đương sự khác vì bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành ngay. Khi không thể làm rõ về sự
“không biết” hoặc
“không thể biết” này thì không thể phủ nhận những chứng cứ này vì sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của người đưa ra chứng cứ, nên có thể quy định về chế tài phạt phải chịu án phí đối với những đương sự cố tình dấu diếm chứng cứ đến cấp phúc thẩm mới cung cấp.
Thứ hai, trên thực tế có thể thấy hoạt động chứng minh là chỉ cho thấy rõ là đúng, là có thật bằng lý lẽ hoặc bằng chứng cứ đây là công việc chủ yếu của đương sự. Tuy nhiên, việc có công nhận là đúng, là có thật hay không lại thuộc về tòa án. Hiện nay các tòa án vẫn thường có quan niệm rằng nghĩa vụ cung cấp chứng cứ thuộc về phía đương sự, còn nghĩa vụ chứng minh thuộc về tòa án. Đồng nhất nghĩa vụ cung cấp chứng cứ với nghĩa vụ chứng minh, các bên đương sự chỉ thực hiện một phần nhỏ quyền, nghĩa vụ nghiên cứu, đánh giá chứng cứ tại phiên tòa. Đây là một nhận định hoàn toàn sai lầm. Do đó, cần thiết phải để các đương sự tham gia vào đầy đủ các giai đoạn của hoạt động chứng minh từ thu thập, cung cấp đến nghiên cứu đánh giá chứng cứ mới có thể phát huy được vai trò quan trọng và trung tâm của họ.
Một trong các biện pháp có thể áp dụng để khắc phục được nhược điểm này là hình thành một phiên tòa trù bị. Phiên tòa trù bị sẽ do một thẩm phán được phân công xét xử vụ việc đó chủ trì. Phiên tòa bao gồm các bên đương sự, họ sẽ được xem xét toàn bộ các chứng cứ có trong hồ sơ đồng thời đưa ra nhận định của mình thể hiện quyền nghiên cứu đánh giá chứng cứ. Phiên tòa trù bị sẽ không có bất cứ một phán quyết nào được đưa ra. Tuy nhiên, nó sẽ có vai trò vô cùng quan trọng tác động đến thẩm phán chủ tọa phiên tòa khi đó họ sẽ có một cái nhìn khách quan hơn toàn diện hơn về vụ việc có tranh chấp. Đồng thời với đó là các bên đương sự có thể nhận định một cách tỉ mỉ về vụ án, chuẩn bị tốt nhất cho phiên tòa chính thức diễn ra theo đúng quan điểm tranh tụng, phát huy dân chủ đối với các bên và tăng cường được sự tin tưởng của đông đảo nhân dân. Phương án này có thể dẫn đến một khó khăn khác là gây ra việc kéo dài tố tụng cũng như tốn kém thời gian. Tuy nhiên, chỉ với một thẩm phán tham gia chủ trì cũng như thời gian tiến hành ngắn (chỉ một ngày) so với hiệu quả thiết thực mà nó mang lại thì phương án này hoàn toàn có thể chấp nhận được.
Thứ ba, một trong những vướng mắc diễn ra khá phổ biến trong thời gian vừa qua khi áp dụng bộ luật TTDS liên quan đến việc tiếp cận chứng cứ của đương sự chính là ở chỗ các chứng cứ, tài liệu nằm trong sự kiểm soát của các cá nhân, cơ quan tổ chức khác mà họ lại không phối hợp giúp đỡ các đương sự cũng như tòa án trong việc cung cấp các loại chứng cứ này. Có thể thấy rằng thời gian tiến hành họat động tố tụng đối với một vụ án cụ thể thường rất ngắn (thông thường từ 2- 4 tháng) nếu như những cá nhân, cơ quan tổ chức này cố tình kéo dài, không cung cấp chứng cứ thì sẽ làm cho việc tự bảo vệ của đương sự khó khăn hơn rất nhiều. Cá biệt có trường hợp khi tòa án yêu cầu cung cấp chứng cứ thì các cá nhân, cơ quan, tổ chức này chỉ cung cấp một cách vụn vặt các chứng cứ hoặc ở mỗi giai đoạn lại cung cấp những chứng cứ khác nhau thậm chí đối lập nhau ảnh hưởng lớn đến tính ổn định của bản án.
Bộ luật TTDS hiện hành chỉ quy định một cách rất chung chung về nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của các cá nhân, cơ quan, tổ chức tại đoạn 2 khoản 2 Điều 94
“ Cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ theo yêu cầu của tòa án trong thời hạn mười năm ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu” mà không có quy định cụ thể để đảm bảo nghĩa vụ đó. Vì vậy, cần có một hướng dẫn cụ thể nhằm đảm bảo nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Theo đó, khi không thể cung cấp được chứng cứ thì phải thông báo cụ thể bằng văn bản đồng thời với đó là quy kết trực tiếp vấn đề trách nhiệm. Đối với tổ chức thì quy trách nhiệm cụ thể về người đứng đầu cơ quan, tổ chức đó để họ có thể thực hiện nghĩa vụ này mà không hề có sự cản trở nào. Đối với cá nhân, nếu không cung cấp hoặc cung cấp không kịp thời thì có thể quy định vấn đề phạt tiền để răn đe tùy thuộc vào tính chất cũng như mức độ vi phạm.
3.2 Tạo điều kiện để đương sự có thể tự bảo vệ
Đương sự có vai trò quan trọng hàng đầu, họ phải tự bảo vệ lấy quyền và lợi ích của mình khi có tranh chấp xảy ra phù hợp với nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự, điều này khác hẳn so với trong tố tụng hình sự khi mà bị can bị cáo có quyền chứ không có nghĩa vụ chứng minh. Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng hình sự là thuộc về phía tòa án đương sự hoàn toàn có thể
“im lặng” mà quyền và lợi ích của họ trong một chừng mực nhất định vẫn được bảo đảm. Mặc dù vậy, có thể khẳng định ngay rằng khả năng tự bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự là rất thấp nguyên nhân chính xuất phát từ trình độ dân chí chưa cao, sự hiểu biết pháp luật còn rất hạn chế đặc biệt là ở các vùng sâu vùng xa khi mà người dân đã đi kiện cơ quan điện lực vì đã trồng cột điện
“nhìn” vào bàn thờ nhà mình… thì hoàn toàn có thể nhận thấy rằng đây là những đối tượng cần được đặc biệt quan tâm. Năm 1997 Thủ Tướng Chính Phủ đã ban hành quyết định số 734/TTg về việc thành lập tổ chức pháp lý hỗ trợ cho người nghèo và đối tượng chính sách. Tiếp đó, ngày 29/6/ 2006 Quốc Hội khóa IX kỳ họp thứ 9 đã thông qua Luật trợ giúp pháp lý, ngày 23 tháng 6 năm 2008 Thủ Tướng Chính Phủ đã ban hành quyết định số 792/QĐ- TTg về việc phê duyệt đề án
“Quy hoạch mạng lưới trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và chi nhánh của trung tâm giai đoạn 2008 – 2010, định hướng đến năm 2015” đã đánh dấu bước chuyển biến quan trọng về vấn đề này. Tuy nhiên theo các văn bản trên đối tượng được hưởng sự hỗ trợ chỉ là đối tượng đói nghèo, người có công với cách mạng, đồng bào các dân tộc thiểu số, người già, người tàn tật, trẻ em không nơi nương tựa[37]… Hơn nữa các cơ quan được thành lập chỉ có ở cấp tỉnh (biên chế khoảng 16 người) và các chi nhánh thành lập ở các đơn vị hành chính cấp huyện (biên chế khoảng 3 người). Như vậy là chưa đủ trong điều kiện các tranh chấp ngày càng phức tạp và phát sinh ngày càng nhiều hơn với nhiều đối tượng khác nhau và không phải ai cũng đủ hiểu biết để có thể biết được các tổ chức này. Cần thiết phải tạo ra một cơ chế hỗ trợ tất cả các đương sự ngay từ ban đầu, thậm chí là trước khi khởi kiện mà phải gần gũi với nhân dân.
Giải pháp được đưa ra đối với các trường hợp này có thể là thành lập các tổ trợ giúp pháp lý thuộc cấp huyện, trong một số địa phương có số lượng tranh chấp dân sự nhiều có thể tiến tới thành lập tại các xã, phường, thị trấn, các doanh nghiệp… Những tổ trợ giúp này có thể nằm trong các hội như Hội cựu chiến binh, Đoàn thanh niên, Hội nông dân, Công Đoàn… số lượng chỉ khoảng 1-2 người vì hoạt động mang tính thường xuyên và chỉ có vai trò tư vấn. Chức năng của các tổ tư vấn này bao gồm cả việc giúp đỡ đương sự khi có ý định khởi kiện, đề ra các đối tượng cần chứng minh trong mỗi vụ án cụ thể hay nói cách khác là
“bày” cho đương sự biết cần phải làm gì để có thể bảo vệ được quyền và lợi ích của mình. Khi đó, đương sự hoàn toàn có thể chủ động trong việc tìm kiếm và thu thập chứng cứ, giảm đáng kể gánh nặng cho ngành tòa án. Đây cũng là một biện pháp hữu hiệu để giảm thiểu các tranh chấp phát sinh vì khi được tư vấn các bên sẽ đánh giá, nhìn nhận chính xác khả năng thắng kiện của mình và đưa ra quyết định thích hợp có hay không khởi kiện ra tòa án.
Ngoài ra, khi đương sự không có đủ khả năng về kiến thức pháp lý cũng như kinh nghiệm tố tụng trước tòa án thì họ có thể nhờ những người đáp ứng được yêu cầu này tham gia tố tụng, thay mặt mình để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Đây chính là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Thông thường, họ là những luật sự – những người được đào tạo một cách bài bản về công tác pháp lý, có kinh nghiệm tố tụng nhưng cũng có thể là những người khác khi đương sự có đủ sự tin tưởng vào khả năng của họ. Trong điều kiện hạn chế về nhận thức thì đây là giải pháp quan trọng để đương sự có thể tự bảo vệ mình. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp sẽ hướng dẫn để đương sự có thể biết được cần phải thu thập những tài liệu, chứng cứ gì để làm cơ sở cho yêu cầu hay phản yêu cầu của mình, tham gia tranh tụng tại phiên tòa. Đồng thời nếu được tham gia sớm họ có thể tư vấn cho đương sự của mình biết được những điểm mạnh, những bất lợi. Hoạt động này tạo điều kiện tốt nhất để đương sự nhìn nhận một cách thấu đáo về khả năng thắng kiện của mình, giúp cho việc hòa giải có thể diễn ra thuận lợi, giảm đi tương đối các vụ tranh chấp phát sinh tại tòa án[39]. Hiện nay vai trò của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chưa được trú trọng quan tâm cũng như thiếu đi cơ chế để đảm bảo cho họ có thể tham gia một cách nhanh chóng, dễ dàng. Người bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự chỉ tham gia khi đã có tranh chấp sảy ra, hồ sơ của vụ án đã tương đối hoàn thiện công việc của họ chỉ là đi tìm kiếm những căn cứ có lợi cho thân chủ của mình trong phạm vi hạn hẹp của bộ hồ sơ đã hình thành tại tòa án.
Chính vì vậy, một trong các biện pháp để tăng cường sự tự bảo vệ của đương sự là khuyến khích sự tham gia từ phía luật sư, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Trong điều kiện hiện tại, không thể đòi hỏi sự tham gia của luật sư mang tính chất bắt buộc như trong hoạt động tố tụng dân sự của Pháp[40], tuy nhiên có thể mở rộng các biện pháp cụ thể khuyến khích sự tham gia của họ như giảm bớt các thủ tục xác lập khi tham gia, phổ biến quyền được nhờ luật sư, người bảo vệ ngay khi tòa án thụ lý đơn khởi kiện, yêu cầu các đoàn luật sư tỉnh, thành phố tham gia giải quyết một số vụ việc cụ thể của những đối tượng cụ thể như đối tượng chính sách, gia đình nghèo…
Một trong các biện pháp để đương sự có thể chủ động bảo vệ mình khi tham gia tố tụng dân sự đó là trao trả đương sự một số quyền thu thập chứng cứ. Chứng cứ là vấn đề mấu chốt trong các tranh chấp dân sự, không có chứng cứ thì cũng không có hoạt động chứng minh và đương sự không thể bảo vệ được mình. Chính vì vậy, công tác thu thập chứng cứ là khâu quan trọng nhất trong quá trình chứng minh, là tiền đề cho các hoạt động chứng minh còn lại như cung cấp, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ. Hiện tại có nhiều biện pháp thu thập chứng cứ khác nhau như lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng, biên bản đối chất, biên bản xem xét thẩm định tại chỗ, kết luận giám định, kết quả định giá tài sản… hầu hết các chứng cứ trên muốn có được đều phải thông qua tòa án, đương sự thấy cần thiết thì yêu cầu tòa án tiến hành lấy chứng cứ. Đây là những quy định đã làm giảm đi khả năng chủ động của đương sự trong việc thu thập chứng cứ bởi phải thông qua hoạt động chủ quan của cán bộ tòa án, chỉ khi những cán bộ này
“xét thấy” cần thiết thì mới cho tiến hành thu thập chứng cứ. Bên cạnh đó, những gì mà tòa án và các bên đương sự quan tâm khi tiến hành các biện pháp này chính là kết quả của quá trình đó như thế nào? có nghĩa là chứng cứ thu thập được là gì chứ họ không nhất thiết phải quan tâm đến cách thức tiến hành ra sao. Mặc dù nếu để các đương sự quá tự do thì sẽ dẫn đến việc thu thập chứng cứ không khách qua nhưng trong luật tố tụng dân sự đã dự liệu các trường hợp không đồng ý thì họ có thể tiến hành tố cáo chứng cứ giả mạo theo quy định tại Điều 91 BLTTDS đối với những chứng cứ vật chất hoặc Điều 98 BLTTDS đối với hành vi cung cấp sai sự thật của người làm chứng.
Như vậy, có thể trao trả đương sự một số quyền thu thập chứng cứ cơ bản mà không phải thông qua tòa án như trưng cầu giám định, lấy lời khai của người làm chứng. Biện pháp này có thể giảm bớt gánh nặng cho tòa án cũng như tạo cho đương sự khả năng chủ động cao trong việc tự bảo vệ mình, phát huy vai trò trung tâm trong hoạt động tố tụng dân sự.
3.3 Mở rộng tranh tụng tại phiên tòa – một yêu cầu cơ bản
Vai trò chứng minh của các đương sự được thể hiện một cách cụ thể và trọng tâm nhất trong phiên tòa. Khi đó, các bên sẽ đưa ra những chứng cứ, cơ sở pháp lý mà mình có để bảo vệ những luận điểm của mình, tính dân chủ, minh bạch cũng như tính chính xác trong phán quyết của tòa án cũng từ đây mà hình thành và được tôn trọng. Do đó, việc mở rộng phạm vi, hiệu quả của tranh tụng trong tố tụng dân sự là yêu cầu cấp thiết.
Tranh tụng, về mặt khái niệm được hiểu là
“kiện tụng”, theo nghĩa Hán Việt được hiểu là
“cãi lẽ, cãi nhau để tranh lấy phải”. Xung quanh quan điểm về khái niệm tranh tụng còn có nhiều ý kiến khác nhau như
“tranh tụng chỉ là mối tương quan pháp lý giữa các đương sự”, “tranh tụng phát sinh hai mối tương quan: giữa các đương sự tranh nại với nhau và với đương sự với quốc gia, mà đại diện là tòa án có thẩm quyền” hay
“sự tranh tụng là quá trình từ khi tố quyền được hành xử cho đến khi có một phán quyết của tòa án”. Tuy nhiên, có thể thấy hai đặc điểm cơ bản nổi bật là tranh tụng trong tố tụng dân sự thể hiện rõ nét nhất tại phiên tòa và tranh tụng áp dụng với các bên đương sự với nhau, kết quả của nó sẽ ảnh hưởng đến quyết định cuối cùng mang tính cưỡng chế của nhà nước. Tranh tụng thể hiện được vị trí quan trọng của đương sự trong hoạt động chứng minh, nó là quyền của các đương sự trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tòa án thực sự chỉ đóng vai trò của một vị trọng tài trong việc đề ra các đối tượng cần chứng minh còn các đương sự tự do sử dụng chứng cứ, lập luận.
Việc mở rộng tranh tụng không những phù hợp với quan điểm
“nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là một khâu đột phá của hoạt động tư pháp” của Đảng mà còn là một yêu cầu tất yếu trong xu thế hội nhập khi các nước phát triển trên thế giới đã áp dụng một cách triệt để nguyên tắc này. Còn tại Việt Namquá trình tố tụng vẫn diễn ra theo lối xét hỏi, hội đồng xét xử chỉ tiến hành hỏi tại phiên tòa với những vấn đề còn chưa được rõ. Hiện tượng bản án đã được quyết định trước khi có phiên tòa, phiên tòa chỉ là một hình thức để
“hợp thức hóa bản án” đã có từ trước vẫn còn phổ biến. Vai trò của đương sự không được để ý nhiều, thể hiện ở trình tự phiên tòa là xét hỏi trước rồi mới đến tranh luận, số lượng các điều luật quy định vấn đề xét hỏi nhiều hơn hẳn so với các quy định về vấn đề tranh luận (15/ 4), thủ tục hỏi bắt đầu từ phía hội đồng xét xử, khi các bên muốn hỏi phải được sự đồng ý của HĐXX. Cá biệt tại một số tòa án, HĐXX còn hạn chế thời gian tranh luận của các bên đương sự. Cần thiết phải thay đổi cách nghĩ, cách làm này.
Giải pháp được đưa ra cho vấn đề này là cần phải quy định vấn đề tranh tụng thành một nguyên tắc là nguyên tắc tranh tụng. Như đã phân tích ở trên thì những nguyên tắc là kim chỉ nam cho mọi hoạt động, khi đưa tranh tụng lên thành một nguyên tắc sẽ mang tính chất chỉ đạo cho toàn bộ quá trình tố tụng. Tòa án sẽ phải quan tâm hơn đến quyền của các bên đương sự cũng như tạo ra sự nhận thức đúng đắn về vai trò quan trọng của đương sự. Ngoài ra, còn phải có các biện pháp cụ thể đảm bảo cho nguyên tắc này được thực hiện trên thực tế như nghiêm cấm việc xây dựng phán quyết trước khi mở phiên tòa. Vì khi đã tiến hành phán quyết từ trước thì theo tâm lý chủ quan của HĐXX sẽ gây khó khăn cho phía đương sự bất lợi trong phán quyết đó cũng như tạo ra tâm lý ngại sửa đổi bản án, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các bên. Thứ hai, quy định tiến hành thủ tục tranh luận trước khi xét hỏi bởi khi tranh luận các bên tự do đưa ra những ý kiến của mình và bảo vệ nó, tòa án sẽ định hướng quá trình tranh luận để làm rõ những căn cứ giải quyết tranh chấp về pháp luật nội dung. Khi các bên đã hoàn thành thủ tục tranh luận thì HĐXX sẽ hỏi những vấn đề còn chưa được rõ để làm căn cứ cho phán quyết của mình. Có như vậy mới đảm bảo được tính công bằng và dân chủ trong phiên tòa.
3.4 Giải quyết vấn đề tài chính
Trong hoạt động chứng minh, việc thu thập chứng cứ là một khâu quan trọng nhất để tạo ra những cơ sở vững chắc cho quan điểm của các bên. Có nhiều cách thức khác nhau để tiến hành việc thu thập chứng cứ, nhưng trên thực tế không phải lúc nào đương sự cũng có thể tự mình lấy được các chứng cứ. Chứng cứ nằm ở nhiều nguồn khác nhau, có thể từ lời khai của người làm chứng, có thể trong các kết luận mang tính khoa học như giám định… việc thu thập các chứng cứ này không chỉ đơn thuần là tốn công sức của đương sự mà còn tốn kém cả tiền bạc. Luật tố tụng dân sự đã quy định rất rõ ràng về các chi phí tố tụng trong đó có cả các chi phí cho hoạt động thu thập chứng cứ như chi phí giám định, chi phí định giá, chi phí cho người làm chứng… (mục 2 chương IX – BLTTDS 2004) theo đó bên nào có yêu cầu tiến hành phải nộp tiền tạm ứng chi phí sau đó khi có bản án mới xác định cụ thể đối tượng phải nộp. Tuy nhiên, khoản tiền nộp tạm ứng chi phí tố tụng như trên cũng không phải vấn đề nhỏ bởi thu nhập tại nhiều địa phương còn thấp mà các khoản chi phí tố tụng này thì không phải nhỏ, đôi khi ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của các bên đương sự, hạn chế khả năng thu thập chứng cứ. Ví dụ như trường hợp người mẹ đi kiện xác định cha cho con. Mẹ đứa trẻ có nghĩa vụ chứng minh người đàn ông bị kiện là cha đứa trẻ. Việc xác định này là rất khó khăn khi thiếu bằng chứng và biện pháp cuối cùng được tìm đến là biện pháp giám định. Người yêu cầu giám định ở đây là mẹ của đứa trẻ nên sẽ phải nộp tiền tạm ứng chi phí giám định. Tuy nhiên, chi phí giám định thường khá lớn (giao động trong khoảng 20 triệu đồng), nhiều trường hợp sẽ không có đủ tiền để nộp tạm ứng nên sẽ rất dễ ảnh hưởng đến tính chính xác của bản án cũng như quyền lợi của cả người mẹ và đứa trẻ.
Không thể quy định miễn cũng như quy định dễ dãi đối với các chi phí tố tụng này bởi như vậy sẽ dẫn đến tình trạng yêu cầu một cách tràn lan, không cần thiết ảnh hưởng đến ngân sách nhà nước trong điều kiện các tranh chấp dân sự đang ngày càng nhiếu. Nhưng cũng cần thiết phải quan tâm để đảm bảo quyền lợi cho các đối tượng khó khăn nên quy định trong từng trường hợp cụ thể tòa án sẽ cho phép tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ cần chi phí có sự hỗ trợ từ phía ngân sách nhà nước. Những trường hợp này phải đảm bảo được hai điều kiện. Thứ nhất, đối tượng nộp tam ứng phải là những người thực sự khó khăn về kinh tế như gia đình nghèo, đối tượng chính sách… họ không thể có đủ tiền để nộp. Điều kiện thứ hai là trong vụ án đó không còn cách nào khác để nhận định chính xác đối với đối tượng tranh chấp (như ví dụ trên nếu như đã có đủ căn cứ để suy luận người đàn ông là cha của đứa trẻ thì sẽ không cần phải tiến hành trưng cầu giám định).
Trên đây là một số khó khăn, vướng mắc và giải pháp đưa ra để hoàn thiện pháp luật liên quan đến việc nâng cao hiệu quả và tính chủ động, tích cực của đương sự trong hoạt động chứng minh thể hiện qua các giai đoạn của quá trình thu thập, cung cấp, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ. Các biện pháp này khi đi vào thực tế sẽ có hiệu quả tích cực nên cần thiết phải được áp dụng sớm.
SOURCE: TRÍCH DẪN TỪ CÔNG TRÌNH DỰ THI GIẢI THƯỞNG “SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC” ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI NĂM 2009
Công ty Luật Bắc Việt Luật
P2802, tầng 28, tòa nhà Central Fied , Trung Kính, Trung Hòa, Cầu Giấy, Hà nội
Tel: 87696666-0386319999
Hotline: 0938-188-889 – 0913753918
www.bacvietluat.vn - www.tuvanluat.net - www.sanduan.vn"HÃY NÓI VỚI LUẬT SƯ ĐIỀU BẠN CẦN"