GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG PHƯƠNG THỨC TRỌNG TÀI Ở VIỆT NAM

Ngày nay văn bản quan trọng nhất về trọng tài ở nước ta là Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 (sau đây: Pháp lệnh). Pháp lệnh này có quy định trọng tài giải quyết tranh chấp có yếu tố nước ngoài và tranh chấp không có yếu tố nước ngoài. Ở đây, chúng ta chủ yếu quan tâm đến việc giải quyết tranh chấp có yếu tố nước ngoài trước Trọng tài Việt Nam. Khi nào trọng tài Việt Nam có thẩm quyền giải quyết (I) ? Khi giải quyết tranh chấp, Trọng tài áp dụng những quy phạm pháp luật nào? (II) Sau khi giải quyết tranh chấp, số phận của quyết định trọng tài ra sao? (III). Chúng ta lần lượt nghiên cứu các vấn đề trên. I. Thẩm quyền xét xử của Trọng tài [1] Sự cần thiết. Nếu không có văn bản ràng buộc các bên đưa tranh chấp ra trước Trọng tài, Trọng tài chỉ có thể giải quyết tranh chấp khi có thỏa thuận về Trọng tài. Pháp lệnh đã nhấn mạnh điều này. Chẳng hạn, theo Điều 1 và khoản 1 Điều 3, “pháp lệnh này quy định về tổ chức và tố tụng trọng tài để giải quyết các vụ tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại theo sự thỏa thuận của các bên” và “tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài, nếu trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp các bên có thỏa thuận trọng tài”. Như vậy, “thỏa thuận trọng tài là vấn đề then chốt và có vai trò quyết định đối với việc áp dụng Trọng tài như một phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh. Nói cách khác, không có thỏa thuận trọng tài thì không có việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài”[1].   Như vậy, Trọng tài chỉ có thẩm quyền xét xử nếu giữa các bên tồn tại một thỏa thuận chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp. Nếu có thỏa thuận trọng tài nhưng thỏa thuận trọng tài không có giá trị pháp lý thì Trọng tài cũng không có thẩm quyền và, nếu Trọng tài vẫn giải quyết trong trường hợp này, quyết định trọng tài sẽ bị hủy. Bởi lẽ, theo Điều 54, Pháp lệnh, “Toà án ra quyết định huỷ quyết định trọng tài nếu bên yêu cầu chứng minh được rằng Hội đồng Trọng tài đã ra quyết định trọng tài thuộc một trong các trường hợp sau đây: Không có thỏa thuận trọng tài và Thỏa thuận trọng tài vô hiệu”. Do đó, chúng ta cần xem xét khi nào thỏa thuận trọng tài tồn tại (1) và khi nào thỏa thuận này có hiệu lực (2). 1.Tồn tại một thỏa thuận trọng tài [2] Định nghĩa. Theo khoản 2 Điều 2 Pháp lệnh, “thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên cam kết giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong hoạt động thương mại”. BLTTDS cũng có quy định. Thực vậy, theo khoản 1 Ðiều 365, “thỏa thuận trọng tài có thể là điều khoản về Trọng tài đã được ghi trong hợp đồng hoặc thỏa thuận riêng về Trọng tài được các bên ký kết sau khi phát sinh tranh chấp”. Trong thực tế, để biết một thỏa thuận có là thỏa thuận trọng tài hay không đôi khi không đơn giản. Khi thiết lập thỏa thuận về trọng tài các bên nên thận trọng. Để tránh mọi phiền toái liên quan đến sự tồn tại của thỏa thuận trọng tài, các bên có thể đưa vào hợp đồng điều khoản trọng tài mà Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam khuyến khích. Cụ thể, các bên có thể thỏa thuận rằng “mọi tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng này sẽ được giải quyết chung thẩm tại Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam”. [3] Thỏa thuận hết hiệu lực. Để thỏa thuận trọng tài ràng buộc các bên cũng như cơ quan tố tụng thì tại thời điểm có tranh chấp, thỏa thuận này phải còn giá trị pháp lý. Trong thực tế xảy ra nhiều trường hợp theo đó các bên “đã có thỏa thuận trọng tài” nhưng thỏa thuận này không còn giá trị nữa khi có tranh chấp. Trong trường hợp như vậy, Trọng tài không có thẩm quyền và Tòa án có thẩm quyền. Ví dụ, “theo thỏa thuận của các bên tại hợp đồng số 02 thì cơ quan giải quyết tranh chấp giữa các bên (nếu có) là Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (Điều IX) và tại điều 9 bổ sung phụ lục – Hợp đồng số 02 qui định cơ quan giải quyết tranh chấp là Tòa án kinh tế, Tòa án nhân dân TP. Hà Nội. Sau khi doanh nghiệp Phát Thành khởi kiện GTT tại Tòa án Hà Nội, quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ kiện, tại biên bản ghi lời khai bị đơn lập ngày 21/11/2002 tại trụ sở Tòa án Hà Nội ông Chul – đại diện Công ty GTT đã khẳng định Công ty GTT xin chọn Tòa án kinh tế Hà Nội giải quyết tranh chấp giữa Công ty GTT với Công ty Phát Thành. Đến nay, theo quy định tại điều 29 và điều 34 BLTTDS thì vụ kiện vẫn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án kinh tế Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội”[2]. Ở đây, các bên đã có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận này không vô hiệu nhưng không còn giá trị pháp lý nữa nên Tòa án có thẩm quyền giải quyết. 2. Điều kiện hợp pháp của thỏa thuận Trọng tài [4] Bản chất thương mại. Theo Điều 1 Pháp lệnh, “Pháp lệnh này quy định về tổ chức và tố tụng trọng tài để giải quyết các vụ tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại theo sự thỏa thuận của các bên”. Khoản 1 Điều 10 của Pháp lệnh còn quy định là “thỏa thuận trọng tài vô hiệu” khi “tranh chấp phát sinh không thuộc hoạt động thương mại được quy định tại khoản 3 Điều 2 của Pháp lệnh này”. Như vậy, thỏa thuận Trọng tài có giá trị pháp lý đối với các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại. Khoản 3 Điều 2 Pháp lệnh quy định thế nào là hoạt động thương mại bằng hai phương pháp. Bằng phương pháp liệt kê, Pháp lệnh đã đưa ra một danh sách những hành vi thương mại. Cụ thể, theo Điều khoản này, “hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li-xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ”. Những hành vi liệt kê ở trên không phải là hoạt động thương mại duy nhất mà các bên có thể đưa tranh chấp ra trước trọng tài. Bởi theo khoản 3 Điều 2 Pháp lệnh, ngoài những hành vi vừa liệt kê còn có “các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật”. Do vậy, quan điểm mà theo đó “Luật thương mại quy định bao quát hơn”[3]Pháp lệnh về hoạt động thương mại là không thuyết phục. Với cách quy định như trên, chúng ta thấy tất cả những gì quy định trong Luật Thương mại mà không có trong danh sách trên[4] đều thuộc phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh vì đó là “các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật”. [5] Năng lực. Theo khoản 3 Điều 10, thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi “một bên ký kết thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ”. Vậy, khi không có cơ sở để khẳng định năng lực dân sự thì thỏa thuận trọng tài có vô hiệu không ? Trong thực tế đã xảy ra trường hợp khi không chứng minh được sự tồn tại của một bên, Tòa án coi pháp nhân không tồn tại. Do vậy, không có cơ sở để chứng minh rằng bên này có năng lực dân sự. Vì Pháp lệnh không nêu rõ trường hợp không có năng lực dân sự có làm cho thỏa thuận trọng tài vô hiệu hay không, nên dường như trong trường hợp như vậy, Tòa án đã đi lòng vòng. Theo Tòa án, trong trường hợp này, người đại diện không có tư cách đại diện nên thỏa thuận trọng tài không có giá trị pháp lý. Ví dụ sau đây cho thấy điều này. Đó là tranh chấp giữa Công ty Thủ Đô và Công ty Windo. Theo Tòa án nhân dân tối cao, “Hội đồng xét xử thấy không đủ căn cứ để xác định tư cách pháp nhân (năng lực pháp luật dân sự) của Công ty Windo là chủ thể trong quan hệ thương mại theo quy định tại Điều 3 Luật Thương mại và Điều 832 Bộ luật Dân sự… Khi không có căn cứ pháp lý để xác định tư cách pháp nhân của Công ty Windo theo pháp luật Việt Nam thì đương nhiên việc xác nhận của ông Liyanto về tư cách đại diện của ông Hưng cũng không có giá trị pháp lý theo pháp luật Việt Nam”[5]. “Năng lực pháp luật dân sự” là khả năng của ai đó “có quyền dân sự và có nghĩa vụ dân sự” và “năng lực hành vi dân sự” là khả năng của ai đó “bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự”. Như vậy, năng lực dân sự và năng lực hành vi dân sự là hai khái niệm khác nhau. Một người có thể có năng lực dân sự nhưng không có năng lực hành vi và khi không có năng lực dân sự thì không có năng lực hành vi dân sự. Nếu thực sự Công ty mà người ký cho rằng mình là đại diện không có năng lực dân sự thì sẽ không có năng lực hành vi dân sự. Do đó, đây có thể là một lý do dẫn đến thỏa thuận trọng tài vô hiệu và việc đi lòng vòng như trên của Tòa án là không cần thiết. [6] Thẩm quyền. Theo khoản 2 Điều 10, , thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi “người ký thỏa thuận trọng tài không có thẩm quyền ký kết theo quy định của pháp luật”. Ở đây, Pháp lệnh không nêu rõ là có thẩm quyền theo pháp luật nước ngoài và trong thực tế Tòa án đã phải giải quyết vấn đề này. Ví dụ, trong hợp đồng mua bán các bên đã thỏa thuận là “nếu hai bên không đạt được thỏa thuận dàn xếp tranh chấp sẽ do Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam ở 33 phố Bà Triệu – Hà Nội giải quyết. Quyết định của Trung tâm sẽ là cuối cùng và hai bên có nghĩa vụ tuân theo”. Sau đó, Công ty Kumgang cho rằng “thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng mua bán ngày 12.4.2002 là vô hiệu vì người ký thỏa thuận là ông Hong Kun Yun – Trưởng Văn phòng đại diện của Công ty Kumgang tại Hà Nội ký, mà ông Tổng giám đốc Công ty Kumgang không ủy quyền cho ông Hong Kun Yun ký hợp đồng mua bán này”[6]. Nhưng theo Tòa án, “trong quá trình thực hiện hợp đồng Chủ tịch tập đoàn Kumgang không hề phản đối tư cách bên mua trong hợp đồng là Công ty Thái Bình (Công ty Kumgang đã chấp nhận L/C do người mở là Công ty Thái Bình, bản thân ông Chủ tịch tập đoàn đã trực tiếp gửi các công văn từ Hàn Quốc cho Công ty Thái Bình để trao đổi việc bảo hành, sửa chữa màn hình LED cũng như thực hiện các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng…). Như vậy, Công ty Kumgang đã chấp nhận hợp đồng (mua bán) và đã được hưởng lợi từ hợp đồng này. Vì thế họ phải có nghĩa vụ thực hiện các quy định của hợp đồng trong đó có cả Điều 15.3 (điều khoản về trọng tài nêu trên). Hơn nữa, theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Nghị quyết số 04/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì hợp đồng mua bán hàng hóa nêu trên có hiệu lực pháp luật. Việc VIAC thụ lý giải quyết tranh chấp là hoàn toàn đúng thẩm quyền”[7]. Ở đây, người ký thỏa thỏa thuận trọng tài không phải là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp mà theo giấy ủy quyền và người ký dường như không được ủy quyền để ký kết. Mặc dù vậy, theo Tòa án, thỏa thuận trọng tài vẫn có giá trị pháp lý và Tòa án đã áp dụng pháp luật Việt Nam. Bởi, theo Tòa án, hợp đồng mua bán có điều khoản trọng tài đã được bên được đại diện chấp nhận nên họ cũng phải chấp nhận điều khoản trọng tài. [7] Thỏa thuận không rõ ràng. Trong thực tế, khi xác lập thỏa thuận trọng tài, có thể các bên không rõ ràng về đối tượng tranh chấp hay tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp này, các bên nên bổ sung nếu không thì thỏa thuận có nguy cơ bị vô hiệu và Trọng tài không có thẩm quyền xét xử. Bởi lẽ, theo khoản 4 Điều 10, thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi “thỏa thuận trọng tài không quy định hoặc quy định không rõ đối tượng tranh chấp, tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp mà sau đó các bên không có thỏa thuận bổ sung”. Pháp lệnh không cho biết khi nào là “thỏa thuận trọng tài không quy định hoặc quy định không rõ đối tượng tranh chấp, tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết”. Trong thực tế, không hiếm thỏa thuận bị coi là không rõ ràng và do vậy Trọng tài không có thẩm quyền. Chẳng hạn, cách đây không lâu, Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam đã phải từ chối giải quyết một vụ tranh chấp mua bán giữa một công ty Đài Loan và chi nhánh của một công ty kinh doanh hải sản có trụ sở tại Bà Rịa – Vũng Tàu. Lý do từ chối được đưa ra là vì trong điều khoản về cơ quan giải quyết tranh chấp của hợp đồng mua bán, tên của tổ chức trọng tài này đã không được minh thị một cách cụ thể mà thay vào đó lại ghi chung chung rằng “nếu có tranh chấp sẽ nhờ trọng tài Việt Nam giải quyết”. Trung tâm Trọng tài Quốc tế từ chối vì hiện cả nước có tổ chức trọng tài thương mại khác nhau chứ không chỉ có Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (ngoài Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam còn có Trung tâm Trọng tài khác như Trung tâm Trọng tài Thương mại Hà Nội, Trung tâm Trọng tài Thương mại Tp.HCM, Trung tâm Trọng tài Thương mại Cần Thơ và Trung tâm Trọng tài Thương mại Á Châu). [8] Thỏa thuận không rõ ràng (tiếp). Một vấn đề có thể rõ ràng với người này và không rõ ràng với người khác. Do vậy, có thể nói không có khái niệm nào “không rõ ràng” bằng khái niệm “rõ ràng”. Tất cả phụ thuộc vào chính sách của những người áp dụng khái niệm trên. Trong một số trường hợp, Tòa án cho rằng thỏa thuận không rõ ràng nhưng cách giải quyết này không thực sự thuyết phục. Chẳng hạn, giữa các bên đã thỏa thuận với nhau rằng “Tranh chấp sẽ được giải quyết bởi Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh”. Theo Tòa án, đây “là một thỏa thuận không rõ ràng về tổ chức trọng tài có thẩm quyển giải quyết vụ tranh chấp; và theo đó nếu như giữa (các bên) không có sự thỏa thuận bổ sung để chọn trọng tài như quy định tại khoản 4 Điều 10 Pháp lệnh trọng tài thương mại thì phải coi thỏa thuận chọn trọng tài tại Điều 7 hợp đồng 73/RK-HNF là thỏa thuận trọng tài vô hiệu”[8]. Ở đây rõ ràng các bên đã muốn chọn “Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam” mà ở nước ta chỉ có duy nhất một “Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam”. Tuy nhiên, phần sau của đoạn trên có thêm là “tại thành phố Hồ Chí Minh”. Và do vậy, Tòa án đã cho rằng thỏa thuận trên là không “rõ ràng”. Ví dụ vừa rồi cho thấy ranh giới giữa “rõ ràng” và “không rõ ràng” đôi khi quá mỏng manh. Nếu chúng ta ủng hộ Trọng tài, chúng ta có thể cho rằng đó chỉ là sơ suất về sử dụng từ chứ thực ra ý tưởng của các bên đã rõ ràng là chọn “Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam”. Còn phần sau có thể là nơi xét xử tại TP. Hồ Chí Minh mà nếu các bên có mâu thuẫn về nơi xét xử cũng không làm cho thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Ở Pháp, Tòa án cũng như Trọng tài đều chấp nhận thỏa thuận có những sơ suất như ví dụ của chúng ta. Chẳng hạn, họ đã chấp nhận thẩm quyền của Trọng tài mặc dù các bên nêu trong thỏa thuận là chọn Trọng tài của Phòng thương mại quốc tế “có trụ sở tại Genève” hay “của Zurich”. Thực tế, chúng ta chỉ có một Phòng thương mại quốc tế ở Paris và, theo thực tiễn của Pháp, thì đây chỉ là những sơ suất chứ ý tưởng của các bên đã rõ ràng là chọn Trọng tài của Phòng thương mại quốc tế Paris. [9] Hợp đồng vô hiệu (?). Theo Điều 11 Pháp lệnh, “điều khoản trọng tài tồn tại độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, sự vô hiệu của hợp đồng không ảnh hưởng đến hiệu lực của điều khoản trọng tài”. Như vậy, những thay đổi về hợp đồng mà việc giải quyết tranh chấp được các bên thỏa thuận bằng phương thức trọng tài không làm ảnh hưởng đến thỏa thuận trọng tài. Hiện nay có một số học giả cho rằng khi hợp đồng vô hiệu thì Trọng tài không có thẩm quyền và thẩm quyền thuộc về Tòa án. Quan điểm này là không thuyết phục. Thứ nhất, với hướng giải quyết như quan điểm trên, chúng ta làm vô hiệu hóa nguyên tắc về sự độc lập của thỏa thuận trọng tài và hợp đồng. Điều 11 Pháp lệnh khẳng định sự độc lập trên nhằm mục đích nhấn mạnh việc hợp đồng vô hiệu không làm mất đi thẩm quyền của Trọng tài. Nếu chúng ta theo hướng giải quyết của quan điểm trên, chúng ta không biết Điều 11 về hợp đồng vô hiệu được đưa ra để làm gì. Trong thực tế, Tòa án đã từng khẳng định rằng việc hợp đồng chính vô hiệu không làm ảnh hưởng đến thỏa thuận trọng tài. Ví dụ, trong hợp đồng mua bán giữa Công ty Đại Hùng và Công ty Zest các bên có thỏa thuận chọn Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam. Khi có tranh chấp, Công ty Đại Hùng do ông Thọ đại diện cho rằng người ký hợp đồng đã vượt quá sự cho phép của Điều lệ công ty nên bị coi là vô hiệu. Tuy nhiên, theo Tòa án nhân dân tối cao, “xét việc ông Simonov (người ký hợp đồng trong đó có thỏa thuận trọng tài) có giá trị vượt quá mức quy định của Công ty thuộc phần nội dung của hợp đồng. Theo quy định tại Điều 11 Pháp lệnh trọng tài thương mại thì việc vô hiệu này không ảnh hưởng đến việc các bên có thỏa thuận trọng tài”[9]. Có lẽ quan điểm trên được đưa ra vì họ cho rằng Trọng tài không có thẩm quyền giải quyết hợp đồng vô hiệu. Cơ sở pháp lý này là không thuyết phục. Bởi lẽ, BLDS cho rằng Tòa án có thẩm quyền giải quyết hợp đồng vô hiệu nhưng không quy định rằng chỉ có Tòa án mới có quyền giải quyết việc này. Hơn nữa, theo thực tiễn pháp lý, Trọng tài hoàn toàn có thể giải quyết việc này. Chẳng hạn, theo Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh, “đặt giả thiết hợp đồng liên doanh thuộc phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, thì việc kết luận hợp đồng là vô hiệu phải thuộc thẩm quyền của Trọng tài kinh tế Việt Nam (nay được hiểu là cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế như Toà án, các Trung tâm Trọng tài tại Việt Nam)”. [10] Trợ giúp của Tòa án. Cần lưu ý là việc Trọng tài có thẩm quyền không có nghĩa là Tòa án không có chút vai trò nào. Trong thực tế, vì Trọng tài là một cơ quan phi chính phủ nên vẫn cần có sự trợ giúp của Tòa án. Chẳng hạn, theo Điều 33 Pháp lệnh, “trong quá trình Hội đồng Trọng tài giải quyết vụ tranh chấp, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại, thì các bên có quyền làm đơn đến Tòa án cấp tỉnh nơi Hội đồng Trọng tài thụ lý vụ tranh chấp yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời sau đây: 1. Bảo toàn chứng cứ trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu hủy hoặc có nguy cơ bị tiêu hủy; 2. Kê biên tài sản tranh chấp; 3. Cấm chuyển dịch tài sản tranh chấp; 4. Cấm thay đổi hiện trạng tài sản tranh chấp; 5. Kê biên và niêm phong tài sản ở nơi gửi giữ; 6. Phong tỏatài khoản tại ngân hàng”. Như vậy một bên có quyền yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy nhiên, theo Điều 33 trên thì biện pháp này chỉ được tiến hành “trong quá trình Hội đồng Trọng tài giải quyết vụ tranh chấp”. Trước khi Hội đồng Trọng tài giải quyết vụ tranh chấp, một bên có quyền yêu cầu biện pháp trên không? Pháp lệnh không có câu trả lời. Thiết nghĩ sẽ là hợp lý hơn nếu chúng ta cho phép yêu cầu áp dụng biện pháp tạm thời ngay cả khi Hội đồng Trọng tài chưa thụ lý giải quyết. Việc cho phép này sẽ hạn chế trường hợp các bên tẩu tán, giấu tài sản nhằm trốn tránh việc thi hành quyết định sau này. Trong quá trình sửa đổi Pháp lệnh về trọng tài, chúng ta nên bổ sung giải pháp này. Theo Pháp lệnh thì một bên có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp tạm thời “trong quá trình Hội đồng Trọng tài giải quyết vụ tranh chấp” nhưng lại không cho biết từ thời điểm cụ thể nào, yêu cầu này được thực hiện. Trong thực tiễn pháp lý, việc yêu cầu này có thể được thực hiện từ thời điểm nộp đơn khởi kiện ra Trọng tài. Chẳng hạn, trong một quyết định của Tòa án TP. Hà Nội chúng ta có thấy ghi như sau : “ngày 13.10.2004, bên mua đã có đơn khởi kiện đến Trung tâm trọng tài quốc tế bên cạnh Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam để yêu cầu giải quyết buộc bên bán phải bồi thường 236.550.000 USD. Đồng thời có đơn yêu cầu Tòa án Hà Nội ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cho giữ lại số tiền 236.550.000 USD (…). Xét thấy yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Công ty Nghệ An (…) là có cơ sở để chấp nhận”[10]. Ở đây, Công ty Nghệ An đã kiện ra Trọng tài ngày 13/10/2004, đồng thời cùng ngày này họ đã yêu cầu Tòa án can thiệp và đã được chấp nhận. Như vậy, trong khi chúng ta chưa sửa đổi Pháp lệnh về trọng tài, chúng ta nên khởi kiện ra Trọng tài sớm và đồng thời với việc kiện này chúng ta có thể yêu cầu Tòa án can thiệp. II. Pháp luật áp dụng trước Trọng tài 1. Trường hợp các bên chọn pháp luật áp dụng [11] Tự do lựa chọn pháp luật. khoản 5 Điều 49 Pháp lệnh quy định: “Các bên có quyền thỏa thuận lựa chọn pháp luật theo quy định tại khoản 2 Ðiều 7 của Pháp lệnh này, tập quán thương mại quốc tế để giải quyết vụ tranh chấp”. Vậy theo Điều 49, các bên có quyền thỏa thuận chọn pháp luật một nước và tập quán thương mại quốc tếđể điều chỉnh hợp đồng. Trong thực tế, chúng ta không hiếm gặp các bên chọn tập quán quốc tế như trường hợp các bên thường chọn UCP 500 để điều chỉnh L/C. [12] Phương thức lựa chọn pháp luật. Pháp lệnh cho phép các bên lựa chọn pháp luật nước ngoài nhưng không nêu là các bên phải lựa chọn pháp luật áp dụng như thế nào. Các bên hoàn toàn có thể lựa chọn pháp luật vào thời điểm xác lập hợp đồng. Theo thực tiễn trọng tài quốc tế Việt Nam, thời điểm lựa chọn luật áp dụng còn có thể muộn hơn và có thể được thể hiện trong quá trình tố tụng. Xin dẫn một ví dụ liên quan đến tranh chấp về hợp đồng giữa một công ty Singapore và một doanh nghiệp Việt Nam để minh họa. Theo phán quyết của Trọng tài, “trong hợp đồng không có quy định gì về luật áp dụng cho hợp đồng. Trong đơn kiện, nguyên đơn đề xuất dùng luật Việt Nam, cụ thể là Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25-9-1989 để áp dụng cho hợp đồng. Trong bản giải trình, bị đơn thống nhất với nguyên đơn lấy luật Việt Nam làm luật điều chỉnh hợp đồng. Như vậy, ý chí chọn luật của hai bên đã thống nhất, trọng tài tôn trọng sự lựa chọn này và quyết định lấy luật Việt Nam, cụ thể là Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25-9-1989 áp dụng cho quan hệ hợp đồng giữa hai bên”[11]. 2. Trường hợp các bên không chọn pháp luật áp dụng [13] Văn bản. Theo khoản 2 Điều 7 Pháp lệnh, “trong trường hợp các bên không lựa chọn được pháp luật để giải quyết vụ tranh chấp thì Hội đồng Trọng tài quyết định”. Cũng cần biết là theo Quy tắc tố tụng của Trọng tài quốc tế Việt Nam được áp dụng từ ngày 1/7/2004, trong trường hợp như vậy, “Hội đồng Trọng tài quyết định chọn luật áp dụng mà Hội đồng Trọng tài cho là phù hợp”. [14] Thực tiễn pháp lý. Trong thực tế, khi các bên không có thỏa thuận chọn luật áp dụng, Trọng tài Việt Nam dựa vào nhiều yếu tố của của tranh chấp để xác định luật áp dụng cho hợp đồng. Nhưng nhìn chung là Trọng tài hướng tới áp dụng pháp luật Việt Nam. Ví dụ, liên quan đến tranh chấp giữa một công ty Việt Nam và một Công ty Malaysia theo Hội đồng Trọng tài, “trong Hợp đồng số No S0040/05, hai bên đã xác định tại thỏa thuận Trọng tài là chọn quy tắc tố tụng và pháp luật của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam. Mặt khác, trong đơn kiện của Việt Linh gửi Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam có nêu rõ việc áp dụng pháp luật Việt Nam, cụ thể là Luật thương mại 1997, Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003, Nghị định 25/2004/NĐ-CP ngày 15/1/2004, Nghị quyết số 05/2003/NQ-HĐTP ngày 31/7/2003 và quy tắc tố tụng của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam. Phía bị đơn cho đến thời điểm mở phiên xét xử không hề có ý kiến phản bác đối với đề nghị áp dụng luật của công ty Việt Linh. Xuất phát từ những căn cứ này, Hội đồng trọng tài quyết định luật áp dụng là pháp luật nước CHXHCN Việt Nam để giải quyết vụ kiện”. III. Hủy quyết định của Trọng tài quốc tế Việt Nam [15] Dẫn nhập. Khi không đồng ý với quyết định của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, các bên có quyền yêu cầu Tòa án can thiệp. Ở đây, bên không đồng ý chỉ còn cách là yêu cầu hủy quyết định trọng tài. Bởi theo Điều 50 Pháp lệnh, “trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được quyết định trọng tài, nếu có bên không đồng ý với quyết định trọng tài thì có quyền làm đơn gửi Tòa án cấp tỉnh nơi Hội đồng Trọng tài ra quyết định trọng tài, để yêu cầu hủy quyết định trọng tài”. Tòa án nào có thẩm quyền hủy quyết định trọng tài và thủ tục ra sao? Danh sách mà Pháp lệnh cho phép hủy quyết định trọng tài có giới hạn không? Khi quyết định trọng tài bị hủy thì hậu quả pháp lý của nó đối với các bên như thế nào? Đó là một số lưu ý mà chúng ta cần biết (1) trước khi đi vào nghiên cứu những lý do dẫn tới hủy quyết định trọng tài (2). 1. Một số lưu ý liên quan đến hủy quyết định Trọng tài [16] Tòa án lãnh thổ có thẩm quyền. Theo Điều 50 Pháp lệnh, “nếu có bên không đồng ý với quyết định trọng tài thì có quyền làm đơn gửi Tòa án cấp tỉnh nơi Hội đồng Trọng tài ra quyết định trọng tài”. Như vậy, Tòa án nơi Hội đồng trọng tài ra quyết định có thẩm quyền giải quyết yêu cầu hủy quyết định trọng tài. Ở đây, Tòa án có thẩm quyền xét hủy quyết định trọng tài không phải là nơi Trung tâm trọng tài có trụ sở mà là nơi Hội đồng trọng tài ra quyết định. Ví dụ, giữa Công ty Đại Phúc (Việt Nam) và Công ty Asia (Singapore) có tranh chấp và được Hội đồng trọng tài của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam giải quyết. Chúng ta đã biết là Trung tâm có trụ sở chính ở Hà Nội nhưng vụ việc được giải quyết tại TP. Hồ Chí Minh (nơi ra quyết định). Theo Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh,“Hội đồng Trọng tài ra quyết định trọng tài tại TP. Hồ Chí Minh, căn cứ điểm m khoản 2 Điều 35 BLTTDS và căn cứ vào Điều 50 Pháp lệnh Trọng tại thương mại thì thẩm quyền xét đơn yêu cầu hủy quyết định Trọng tài của Công ty Đại phúc thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh”[12]. [17] Không xét lại vụ việc. Cũng như trong lĩnh vực công nhận và thi hành quyết định trọng tài nước ngoài tại Việt Nam, Tòa án được yêu cầu hủy quyết định trọng tài không xét lại nội dung vụ tranh chấp. Bởi theo khoản 4 Điều 5, Pháp lệnh, “khi xét đơn yêu cầu, Hội đồng xét xử không xét lại nội dung vụ tranh chấp”. Trong thực tế, quy phạm này không thiếu cơ hội được áp dụng. Trong tranh chấp liên quan đến Công ty Nghệ An và Công ty Summit được Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam giải quyết, Công ty Summit yêu cầu Tòa án Hà Nội hủy quyết định trọng tài. Một trong những lý do mà Summit đưa ra là các bên đã thỏa thuận điều khoản phạt phù hợp với Luật Thương mại nhưng Hội đồng trọng tài đã không vô tư, khách quan, đưa ra những nhận định trái với quy định của Luật Thương mại và ra phán quyết trái pháp luật, không tôn trọng thỏa thuận của các bên (theo Hội đồng trọng tài, “số tiền tổn thất từ việc hủy hợp đồng bao gồm cả tiền phạt”). Nhưng theo Tòa án Hà Nội, “nội dung xử lý cũng như hậu quả xử lý hủy hợp đồng có đúng hay không là nội dung vụ tranh chấp, không thuộc phạm vi Tòa án xem xét như quy định tại Điều 53 Pháp lệnh. Như vậy, căn cứ trên yêu cầu đưa ra không phù hợp với khoản 5 mà bên yêu cầu đã viện dẫn. Vì yêu cầu đó thuộc về nội dung vụ tranh chấp. Do đó, Tòa án không có căn cứ xem xét”[13]. [18] Danh sách giới hạn. Pháp lệnh quy định tại Điều 54 những trường hợp Tòa án được quyền hủy quyết định của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam. Câu hỏi đặt ra là danh sách này có phải là danh sách mở hay không ? Nếu là danh sách mở, Tòa án có thể thêm những trường hợp khác và quyết định trọng tài càng có nguy cơ bị hủy. So với pháp luật một số nước, chẳng hạn pháp luật của Pháp, thì danh sách những trường hợp quyết định trọng tài bị hủy ở Việt Nam là khá dài. Vì vậy, chúng ta không nên coi đây là danh sách mở. Điều này cũng phần nào được thể hiện trong Pháp lệnh và trong Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. [19] Hậu quả của hủy quyết định trọng tài. Theo khoản 6 Điều 53 Pháp lệnh,“trong trường hợp Hội đồng xét xử hủy quyết định trọng tài, nếu không có thỏa thuận khác thì các bên có quyền đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại Toà án”. Như vậy, khi quyết định trọng tài bị hủy thì các bên chỉ có hai lựa chọn. Một là tiếp tục giải quyết vụ việc qua con đường trọng tài và lúc đó phải “có thỏa thuận khác”. Khả năng này rất khó xảy ra vì khi các bên đã đưa vụ việc ra tranh chấp trước Trọng tài và đưa quyết định trọng tài ra trước Tòa án thì các bên khó có thể cùng nhau đạt được một thỏa thuận nào nữa[14]. Lúc này, các bên chỉ còn cách là đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại Tòa án nếu bất đồng vẫn không thể tự giải quyết được. Quyết định trọng tài có thể bị hủy bởi nhiều lý do. Loại lý do thứ nhất liên quan đến thỏa thuận trọng tài. Đó là trường hợp “không có thỏa thuận trọng tài”, “thỏa thuận trọng tài vô hiệu”, “vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài”. Ngoài ra chúng ta còn các lý do khác là “Thành phần Hội đồng Trọng tài, tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên”, “trọng tài viên vi phạm nghĩa vụ của Trọng tài viên”, “quyết định trọng tài trái với lợi ích công cộng của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Đối với những lý do không liên quan đến thỏa thuận trọng tài, việc hủy quyết định trọng tài đã buộc các bên phải giải quyết bằng con đường tòa án. Kết quả này đi ngược lại với ý chí của các bên, đi ngược lại với quyền tự định đoạt của họ thông qua thỏa thuận trọng tài. Đối với những trường hợp dẫn tới hủy quyết định trọng tài không do lỗi của các bên như trường hợp trọng tài vi phạm tố tụng thì tại sao lại buộc họ phải chịu sự chi phối của Tòa án? Một bên không thích giải quyết trước trọng tài mặc dù có thỏa thuận có thể tìm cách để trọng tài mắc sai lầm, rồi xin hủy quyết định trọng tài và yêu cầu Tòa án can thiệp. Với hướng giải quyết như hiện nay, chúng ta tăng sự không lành mạnh trong giải quyết tranh chấp. Hơn nữa, Hội đồng trọng tài này mắc sai lầm dẫn đến việc hủy quyết định trọng tài không nhất thiết là Hội đồng khác sẽ cũng mắc sai lầm để dẫn đến hủy quyết định trọng tài như trước. Do vậy, cách quy định như hiện nay là không hợp lý. Thiết nghĩ nên phân biệt hai trường hợp. Khi việc hủy quyết định trọng tài xuất phát từ thỏa thuận trọng tài “nếu không có thỏa thuận khác thì các bên có quyền đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại Tòa án”. Khi việc hủy quyết định trọng tài xuất phát từ lý do khác thì giữa các bên vẫn tồn tại một thỏa thuận trọng tài hợp pháp nên chúng ta cần phải tôn trọng. Ở đây, nếu vẫn có tranh chấp các bên có quyền đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại Trọng tài như thỏa thuận. 2. Những trường hợp hủy quyết định của Trọng tài 2.1 Lý do liên quan đến thỏa thuận trọng tài [20] Thỏa thuận vô hiệu. Tòa án ra quyết định hủy quyết định trọng tài nếu bên yêu cầu chứng minh được rằng Hội đồng Trọng tài đã ra quyết định trọng tài thuộc trường hợp “không có thỏa thuận trọng tài”, “thỏa thuận trọng tài vô hiệu theo quy định tại Điều 10 của Pháp lệnh này”. Trường hợp không có thỏa thuận trọng tài hiếm xảy ra. Với quy định như vừa nêu, chỉ cần thỏa thuận trọng tài thuộc trường hợp vô hiệu tại Điều 10 của Pháp lệnh trọng tài thì Tòa án có cơ sở để hủy quyết định trọng tài. 2.2 Lý do liên quan đến nghĩa vụ của Trọng tài [21] Dẫn nhập. Theo khoản 5 Điều 54 Pháp lệnh, Tòa án ra quyết định hủy quyết định trọng tài nếu “bên yêu cầu chứng minh được trong quá trình giải quyết vụ tranhchấp có Trọng tài viên vi phạm nghĩa vụ của Trọng tài viên quy định tại khoản 2 Điều 13 của Pháp lệnh này”. Khoản 2 Điều 13 quy định nghĩa vụ của Trọng tài như sau : “Trọng tài viên có các nghĩa vụ sau đây: a) Tuân thủ các quy định của Pháp lệnh này; b) Vô tư, khách quan trong việc giải quyết vụ tranh chấp; c) Từ chối giải quyết vụ tranh chấp trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 27 của Pháp lệnh này; d) Giữ bí mật nội dung vụ tranh chấp mà mình giải quyết; đ) Không được nhận hối lộ hoặc có hành vi khác vi phạm đạo đức Trọng tài viên”. Với quy định như vậy thì Quyết định trọng tài có nhiều nguy cơ bị hủy. Bởi phạm vi điều chỉnh của khoản 2 Điều 13 rất rộng. Ở đây, xin chỉ dẫn một trường hợp cụ thể đã gặp phải trong thực tiễn pháp lý. [22] Tuân thủ Pháp lệnh. Theo khoản 2 Điều 13, Trọng tài viên có nghĩa vụ “tuân thủ các quy định của Pháp lệnh này”. Chỉ cần Trọng tài không tuân thủ một trong các quy định của Pháp lệnh thì quyết định của họ có thể bị hủy. Những quy định của Pháp lệnh rất nhiều. Vì vậy, bên không chấp nhận quyết định trọng tài có thể viện dẫn nhiều lý do để xin hủy quyết định trọng tài và, ở đây, Tòa án buộc phải xem xét. Xin dẫn một ví dụ. Theo Điều 40 Pháp lệnh, “bị đơn đã được triệu tập tham dự phiên họp giải quyết vụ tranh chấp mà không tham dự phiên họp không có lý do chính đáng hoặc bỏ phiên họp mà không được Hội đồng Trọng tài đồng ý thì Hội đồng Trọng tài vẫn tiến hành giải quyết vụ tranh chấp căn cứ vào tài liệu và chứng cứ hiện có”. Như vậy, Trọng tài có thể giải quyết tranh chấp vắng mặt bị đơn khi bị đơn “không tham dự phiên họp không có lý do chính đáng”. Điều đó cũng có nghĩa là Trọng tài không thể giải quyết tranh chấp vắng mặt bị đơn khi bị đơn “không tham dự phiên họp” nhưng “có lý do chính đáng”. Việc không tuân thủ quy định này có thể dẫn đến hủy quyết định trọng tài. Chẳng hạn, trong vụ tranh chấp giữa Công ty Nghệ An và Công ty Summit đã được đề cập ở trên, theo Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao, “về việc Hội đồng trọng tài ra Phán quyết trọng tài trong khi bị đơn (có đơn kiện lại) vắng mặt, thì thấy: sau khi ông Nam, người đại diện theo ủy quyền của Giám đốc Summit, xin hoãn phiên họp ngày 06/5/2005 với lý do có hai giấy triệu tập của Tòa án vào ngày 05 và 06/5/2005 nhưng không được Hội đồng trọng tài chấp nhận, thì ông Nam đã có văn bản xin khước từ làm đại diện cho Summit tại phiên họp 06/5/2005 để tham gia phiên tòa của Tòa án. Đồng thời, Summit có văn bản đề nghị hoãn vì không kịp ủy quyền cho người khác tham gia phiên họp ngày 06/5/2005. Như vậy, những lý do xin hoãn phiên họp ngày 6/5/2005 từ phía Summit là có lý do chính đáng. Hội đồng trọng tài đã tổ chức phiên họp vắng mặt bị đơn là vi phạm Điều 40 và Điều 29 Pháp lệnh về trọng tài thương mại”. Từ đó, “căn cứ vào khoản 5 Điều 54 Pháp lệnh về trọng tài thương mại”Tòa án “quyết định hủy Quyết định trọng tài thương mại của Hội đồng trọng tài thuộc Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam”[15]. 2.3 Những lý do khác để hủy quyết định của Trọng tài [23] Ngôn ngữ sử dụng. Theo khoản 3 Điều 54 Pháp lệnh, Tòa án ra quyết định hủyquyết định trọng tài nếu bên yêu cầu chứng minh được rằng Hội đồng Trọng tài đã ra quyết định trọng tài thuộc trường hợp “thành phần Hội đồng Trọng tài, tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên theo quy định của Pháp lệnh này”. Trong thực tế Điều khoản này đã có cơ hội được áp dụng. Ví dụ sau đây cho thấy điều này: Công ty Nghệ An và Công ty Summit đã thỏa thuận rằng “mọi thủ tục tố tụng trọng tài sẽ được tiến hành bằng tiếng Anh”. Việc chọn tiếng Anh này phù hợp với khoản 7 Điều 49 Pháp lệnh vì Điều khoản này đã quy định rằng “các bên có quyền thỏa thuận về sử dụng ngôn ngữ trong tố tụng trọng tài”. Như vậy, các bên đã có thỏa thuận tố tụng trọng tài phù hợp với Pháp lệnh và việc không tôn trọng tố tụng này là cơ sở để Tòa án hủy quyết định trọng tài. Thật vậy, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã xét rằng “việc Hội đồng trọng tài thuộc Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam hỏi các bên về việc sử dụng tiếng Việt tại phiên họp của Hội đồng trọng tài, thì không thể coi là Summit đã đồng ý việc sử dụng tiếng Việt tại phiên họp ngày 6/5/2005 của Hội đồng trọng tài. Vì chính trong Phán quyết của Hội đồng trọng tài đã thể hiện: “Phía bị đơn vắng mặt mà không có lý do chính đáng”. Và tại Biên bản phiên họp ngày 6/5/2005 cũng phản ánh: “Bên Bị không có mặt đại diện ủy quyền hợp pháp tại đây”. Việc bà Hương (người tham dự) đã ký vào “Biên bản về sử dụng ngôn ngữ tại phiên họp giải quyết vụ kiện số 27/04” là người không được ủy quyền. Do đó, Hội đồng trọng tài đã vi phạm Điều 49 Pháp lệnh trọng tài thương mại”[16]. Như vậy, ví dụ vừa rồi cho thấy Tòa án hủy quyết định trọng tài vì Hội đồng Trọng tài không tôn trọng ngôn ngữ mà các bên thỏa thuận cho tố tụng. [24] Liên quan đến nội dung quyết định trọng tài. Theo Điều 54 Pháp lệnh, Toà án ra quyết định hủy quyết định trọng tài nếu bên yêu cầu chứng minh được rằng “quyết định trọng tài trái với lợi ích công cộng của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Như vậy, quyết định trọng tài có thể bị hủy khi “với lợi ích công cộng” của Việt Nam. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng khái niệm này rất trừu tượng và hiện nay chúng tôi chưa có quyết định nào liên quan. [25] Kết luận. Nhìn chung, việc giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài hiện nay tại Việt Nam theo Pháp lệnh thì không thực sự tiến bộ hơn so với Tòa án. Thường thì đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Tòa án hướng tới áp dụng pháp luật Việt Nam[17]. Thực tiễn trọng tài Việt Nam cũng cho thấy như vậy. Bằng cách này hay cách khác, Trọng tài hướng các bên tới áp dụng pháp luật Việt Nam. Hơn nữa, pháp luật Việt Nam có nhiều quy định tương đối khắt khe đối với việc giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài. Với quy định hiện nay, Tòa án chưa thực sự là cơ quan trợ giúp trọng tài. Về áp dụng những quy định của Pháp lệnh thì Tòa án đôi khi cũng tỏ ra khắt khe. Tòa án đã áp dụng một số quy phạm theo hướng bất lợi cho trọng tài thông qua giải thích những quy phạm liên quan đến thỏa thuận trọng tài hay liên quan đến hủy quyết định trọng tài. Để tránh những quy định của Pháp lệnh, có luật gia đã dựa vào một số quy định của Việt Nam để giải quyết bằng phương thức trọng tài mặc dù được tiến hành tại Việt Nam nhưng không chịu sự chi phối của Pháp lệnh trọng tài. Theo khoản 2 Điều 342 BLTTDS, “quyết định của Trọng tài nước ngoài là quyết định được tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam của Trọng tài nước ngoài do các bên thỏathuận lựa chọn để giải quyết tranh chấp”. Như vậy, Trung tâm Trọng tài nước ngoài có thể giải quyết tranh chấp tại Việt Nam. Trong trường hợp này, phán quyết của Trọng tài là phán quyết của Trọng tài nước ngoài. Do đó, việc tiếp nhận phán quyết đó được tiến hành như những quyết định của Trọng tài nước ngoài và không chịu sự điều chỉnh của Pháp lệnh trọng tài năm 2003. Tuy nhiên, giải pháp của pháp luật Việt Nam như trên là không thuyết phục vì hai lý do sau đây. Thứ nhất, với quy định như nước ta, quyết định được tuyên ở nước ta bởi“trọng tài nước ngoài” có nhiều khả năng sẽ không bị kiểm tra bởi bất kỳ Tòa án nào vì, chúng ta coi đó là quyết định nước ngoài nên sẽ không giải quyết việc yêu cầu hủy mà chỉ có thể xem xét việc công nhận và thi hành tại Việt Nam còn ở nước ngoài họ lại coi đây là quyết định của Việt Nam nên sẽ cũng không giải quyết việc yêu cầu hủy mà chỉ có thể xem xét việc công nhận và thi hành tại nước họ. Thứ hai, với quy định như vậy, các bên sẽ không có nhu cầu yêu cầu Trọng tài quốc tế của Việt Nam để giải quyết. Các bên sẽ yêu cầu trọng tài nước ngoài giải quyết nhưng địa điểm giải quyết tại Việt Nam. Nói một các khác, chúng ta hướng tới các bên giải quyết bằng trọng tài không phải là trọng tài của chúng ta. Khái niệm quyết định trọng tài nước ngoài như trên nên sớm được thay đổi.

  [1] Dương Đăng Huệ, Một điển hình của việc xây dựng pháp luật theo hướng hội nhập, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 06/2003, tr. 60. [2] Bản án số 110/2005/KDTM-ST ngày 27/12/2005 của Tòa án nhân dân TP. Hà Nội. [3] Lê Hồng Hạnh, Hoàn thiện pháp luật trọng tài trước yêu cầu phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề về trọng tài thương mại tháng 6/2007, tr. 5. [4] Theo khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2005, “hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. [5] Quyết định số 207/2005/QĐ-TANDTC ngày 13/10/2005 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội. [6] Xem Quyết định số 02/QĐKT ngày 31/8/2004 của TAND TP. Hà Nội. [7] Quyết định số 02/QĐKT ngày 31/8/2004 của TAND TP. Hà Nội. [8] Bản án số 01/QĐKT ngày 14 tháng 7 năm 2004 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội. [9] Quyết định số 112/2006/TTPT ngày 02/06/2006 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội. [10] Quyết định số 03/KT-QĐTT ngày 15/10/2004 của Tòa án nhân dân TP. Hà Nội. [11] Xem Hoàng Ngọc Thiết, Tranh chấp từ hợp đồng xuất nhập khẩu – Án lệ trọng tài và kinh nghiệm, Nxb. CTQG 2002, tr. 171. [12] Quyết định số 27/2006/QĐKDTM-ST ngày 24/1/2006 của Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh. [13] Quyết định số 03/KDTM-ST ngày 29/07/2005. [14] Theo tác giải Hoàng An, “trong thực tế, khi tranh chấp đã phát sinh các bên khó có thể thỏa thuận lại điều khoản trọng tài”, xem Quan hệ có hiệu quả giữa Tòa án và trọng tài với việc áp dụng tốt Pháp lệnh trọng tài, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề về trọng tài thương mại, tháng 6/2007, tr. 15. [15] Quyết định số 04/2006/QĐ ngày 06/1/2006 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội. [16] Quyết định số 04/2006/QĐ ngày 06/1/2006 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội. [17] “Khi các bên không có thỏa thuận về pháp luật điều chỉnh hợp đồng, Tòa án Việt Nam có xu hướng chung là áp dụng pháp luật Việt Nam. Ví dụ, đối với tranh chấp về hợp đồng ký ngày 27/7/1993 giữa một doanh nghiệp Việt Nam và một doanh nghiệp Đài Loan, hợp đồng không có điều khoản về pháp luật chi phối hợp đồng, Tòa án Việt Nam áp dụng pháp luật Việt Nam và không lý giải tại sao. Tương tự, đối với hợp đồng không có điều khoản về pháp luật áp dụng giữa một doanh nghiệp Việt Nam và một doanh nghiệp Nhật Bản, Tòa án Việt Nam đã áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp và cũng không lý giải tại sao”, Đỗ Văn Đại và Mai Hồng Quỳ, Tư pháp quốc tế Việt Nam, Nxb ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh 2006, số 362.  

Công ty Luật Bắc Việt Luật
P2802, tầng 28, tòa nhà Central  Fied , Trung Kính, Trung  Hòa, Cầu Giấy, Hà nội
Tel: 87696666-0386319999
Hotline: 0938-188-889 – 0913753918
www.bacvietluat.vn - www.tuvanluat.net - www.sanduan.vn"HÃY NÓI VỚI LUẬT SƯ ĐIỀU BẠN CẦN"

  • TAG :

Tin liên quan

Danh mục

Loading...

Bài xem nhiều

Bài nổi bật