Những điểm mới cơ bản của Luật Trọng tài thương mại

Những điểm mới cơ bản của Luật Trọng tài thương mại

Ngày 17/6/2010, Luật Trọng tài thương mại số 54/2010/QHXII (có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2011) đã được Quốc hội khóa XII kỳ họp thứ 7 thông qua, thay thế cho Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003.

Đây là một tín hiệu đáng mừng đối với hoạt động trọng tài thương mại các tổ chức trọng tài ở Việt Nam, mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại, đồng thời còn cho phép tổ chức trọng tài nước ngoài thành lập Chi nhánh, Văn phòng đại diện tại Việt Nam[1].

Sự cần thiết phải ban hành Luật Trọng tài thương mại

Năm 1963 và 1964 ở miền Bắc nước ta đã thành lập Hội đồng Trọng tài Ngoại thương và Hội đồng Trọng tài Hàng hải[2]. Vào những năm 1970, một hệ thống các trọng tài kinh tế từ huyện, tỉnh đến Trung ương đã được thành lập để giải quyết tranh chấp giữa các xí nghiệp quốc doanh, các hợp tác xã. Trọng tài kinh tế ở thời điểm đó thực chất là những cơ quan hành chính nhà nước có chức năng giải quyết tranh chấp giữa các xí nghiệp nhà nước mà chưa thực hiện được vai trò trọng tài như tên gọi của mình. Trong khi đó, Toà án nhân dân không có thẩm quyền giải quyết các loại tranh chấp này mà chỉ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp dân sự giữa các cá nhân với nhau, chủ yếu là các vấn đề hôn nhân và gia đình hoặc tranh chấp liên quan đến hàng hoá có mục đích để sử dụng cá nhân và tiêu dùng.

Từ năm 1998 hệ thống Trọng tài kinh tế đã giải thể. Việc giải quyết các tranh chấp kinh tế từ đó đã được thực hiện bằng hai con đường: Toà kinh tế thuộc hệ thống Toà án nhân dân và các Trung tâm trọng tài kinh tế[3]. Theo quy định của Nghị định số 116/CP, Trọng tài kinh tế thực sự được xác định là một tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tức là tổ chức phi Chính phủ có thẩm quyền giải quyết tranh một số tranh chấp theo quy định, hoàn toàn tách rời chức năng quản lý nhà nước như trước đây.

Để đáp ứng nhu cầu của hoạt động trọng tài trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, ngày 25/02/2003, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Trọng tài Thương mại (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2003) tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của các Trung tâm Trọng tài thương mại thay cho hoạt động của các Trọng tài kinh tế. Pháp lệnh Trọng tài thương mại về cơ bản phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế trong việc điều chỉnh các vấn đề chủ yếu của Trọng tài như: quy định về hiệu lực của thoả thuận trọng tài, điều kiện trở thành Trọng tài viên, về trọng tài vụ việc, mở rộng thẩm quyền chọn trọng tài viên, ghi nhận mối quan hệ giữa Trọng tài và Toà án bằng một loạt các quy định cụ thể như hỗ trợ thi hành thoả thuận trọng tài, chỉ định Trọng tài viên, giải quyết khiếu nại về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, giải quyết yêu cầu huỷ quyết định trọng tài, lưu trữ hồ sơ trọng tài v.v.

Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nêu trên, qua hơn sáu năm thực hiện, Pháp lệnh này đã bộc lộ không ít những hạn chế và bất cập như: Phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài; chủ thể của các tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài; giá trị pháp lý của thỏa thuận trọng tài về mặt nội dung và hình thức; việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; việc triệu tập nhân chứng; vấn đề xem xét thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; việc hủy quyết định trọng tài, vấn đề địa điểm tiến hành trọng tài; cách tính thời hiệu khởi kiện v.v…

Theo thống kê của Trung tâm trọng tài quốc tế bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VIAC), trong năm 2007 TAND Thành phố Hà nội đã xử gần 9.000 vụ án trong đó có khoảng 300 vụ tranh chấp kinh tế và TAND Tp. Hồ Chí Minh xử gần 42.000 vụ án, trong đó có 1000 vụ tranh chấp kinh tế thì VIAC với tư cách là tổ chức trọng tài lớn nhất Việt Nam cũng chỉ tiếp nhận 30 vụ tranh chấp trong năm 2007 và 58 vụ trong năm 2008. Trong khi mỗi thẩm phán ở Toà kinh tế Hà Nội phải xử trên 30 vụ một năm, ở Toà kinh tế Tp. Hồ Chí Minh xử 50 vụ một năm thì mỗi trọng tài viên của VIAC chỉ xử 0,25 vụ một năm. Như vậy, một trong những nguyên nhân Trọng tài ít được các bên sử dụng phổ biến ở nước ta là do chưa có những cơ sở pháp lý cần thiết cho việc thực hiện chính sách nhất quán khuyến khích sử dụng Trọng tài; trong các quy định của Pháp luật hiện hành còn có nhiều rủi ro cho việc huỷ phán quyết trọng tài và tạo tâm lý e ngại về hiệu lực của phán quyết trọng tài. Những yếu tố đó đã làm cho độ tin cậy của các bên tranh chấp vào Trọng tài chưa chắc chắn, chưa cao.

Mặc dù đã có những quy định khá tiến bộ so với trước đây, Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 vẫn chưa tạo được cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc thực hiện chủ trương của Nhà nước khuyến khích các bên sử dụng Trọng tài trong giải quyết các tranh chấp thương mại và các tranh chấp khác, cần được khắc phục bằng việc ban hành một đạo luật mới về trọng tài thương mại - Luật Trọng tài thương mại để thay thế Pháp lệnh Trọng tài Thương mại 2003 trên cơ sở kế thừa những chế định tiến bộ, phù hợp kết hợp với những quy định mới, hoàn chỉnh hơn.

Quá trình soạn thảo Luật Trọng tài thương mại

Hội Luật gia Việt Nam là cơ quan chủ trì soạn thảo Luật Trọng tài thương mại. Trong quá trình soạn thảo, Hội Luật gia Việt Nam và Ban soạn thảo Luật đã thành lập Tổ biên tập gồm nhiều chuyên gia trong lĩnh vực pháp luật về Trọng tài, đại diện các cơ quan tư pháp và bổ trợ tư pháp. Với sự hỗ trợ của các chương trình, dự án nước ngoài và đối tác trong nước, Ban soạn thảo đã tổ chức nghiên cứu đánh giá hiệu quả 05 năm thi hành Pháp lệnh Trọng tài Thương mại; tổ chức 12 cuộc Hội thảo khoa học về kinh nghiệm hoạt động trọng tài của các nước trên thế giới nói chung và về dự thảo Luật Trọng tài thương mại của Việt Nam nói riêng với sự tham gia của nhiều chuyên gia quốc tế (Xinh-ga-po, Canada,...) và Việt Nam cũng như đại diện các doanh nghiệp, các luật sư, các trọng tài viên trong cả nước; tổ chức đoàn khảo sát về kinh nghiệm tổ chức và hoạt động Trọng tài tại Vương Quốc Anh.

Mục đích, quan điểm xây dựng Luật Trọng tài Thương mại

Mục đích quan trọng của việc xây dựng Luật Trọng tài thương mại là thể chế hoá kịp thời và đầy đủ đường lối, chính sách của Đảng về xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo đó, Luật này ghi nhận chủ trương mở rộng các hình thức giải quyết trong tranh chấp trong các hoạt động kinh doanh, thương mại và một số các quan hệ dân sự khác, khuyến khích các bên tranh chấp sử dụng hình thức Trọng tài.

Chủ trương khuyến khích sử dụng Trọng tài trong việc giải quyết các tranh chấp giữa các bên trước hết xuất phát từ nhu cầu của các chủ thể kinh doanh, các thể nhân và pháp nhân dân sự muốn giải quyết vụ việc của mình một cách thuận lợi, nhanh chóng và có hiệu quả. Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài góp phần làm giảm tải hoạt động xét xử của Toà án ở nước ta hiện nay. Theo thống kê của các cơ quan tư pháp, tại Toà kinh tế Toà án nhân dân Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, từ năm 2005 đến nay năm nào số lượng vụ việc năm sau cũng tăng gấp đôi năm trước. Tình hình đó ảnh hưởng đến chất lượng xét xử, gây áp lực cao đối với các thẩm phán, ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý của các doanh nghiệp về mức độ an toàn pháp lý trong hoạt động kinh doanh, thương mại.

Thực tiễn áp dụng các hình thức giải quyết tranh chấp lựa chọn ở các nước trong khu vực và trên thế giới cho thấy việc khuyến khích sử dụng Trọng tài trong giải quyết các loại tranh chấp đang là một xu thế tất yếu. Ví dụ: trong năm 2007 Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore đã giải quyết 119 vụ tranh chấp, Hiệp hội Trọng tài Hoa Kỳ - 621 vụ, Toà án Trọng tài quốc tế bên cạnh Phòng Thương mại quốc tế (ICC) - 599 vụ, Hội đồng Trọng tài thương mại và Kinh tế Trung quốc - 1118 vụ, Trung tâm Trọng tài quốc tế Hồng Kông - 448 vụ. Ở nhiều nước và khu vực lãnh thổ đều có quy định Toà án phải từ chối thụ lý vụ tranh chấp nếu các bên đã có thoả thuận trọng tài. Thậm chí, ở Anh, Hồng Kông, Ấn Độ, Ảrập-Sê út còn có quy định rằng, kể cả trong trường hợp không có thoả thuận trọng tài thì các bên tranh chấp cũng phải đưa vụ việc ra Trọng tài trước, nếu không, các bên phải có sự lý giải thoả đáng thì Toà án mới chấp nhận thụ lý vụ tranh chấp.

Quan điểm chủ đạo của việc xây dựng Luật Trọng tài là trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn áp dụng Pháp lệnh Trọng tài thương mại, kế thừa và phát triển các quy định phù hợp đã đi vào cuộc sống, Luật Trọng tài thương mại phải tạo cơ sở pháp lý đầy đủ và thuận lợi cho việc lựa chọn Trọng tài để giải quyết các tranh chấp.

Những điểm mới cơ bản của Dự án Luật Trọng tài thương mại so với Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003

Luật Trọng tài thương mại có 13 Chương và 82 Điều, với những điểm mới cơ bản sau đây:

1. Luật Trọng tài thương mại đã khắc phục những tồn tại của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 (Pháp lệnh TTTM): khắc phục việc phân định không rõ ràng phạm vi thẩm quyền của Trọng tài đối với các tranh chấp thương mại, trên cơ sở đó bảo đảm sự tương thích giữa các văn bản pháp luật hiện hành như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Thương mại, Luật Đầu tư và các luật chuyên ngành khác với Luật Trọng tài thương mại (Luật TTTM). Luật TTTM đã dỡ bỏ hạn chế của Pháp lệnh TTTM về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp thương mại của Trọng tài thông qua việc mở rộng phạm vi thẩm quyền của Trọng tài tới nhiều loại tranh chấp liên quan đến quyền và lợi ích của các bên (Điều 2 Luật TTTM). Đây là một trong những điểm mới quan trọng nhất của Luật TTTM so với Pháp lệnh TTTM và hoàn toàn phù hợp với thực tiễn sử dụng Trọng tài của các nước trên thế giới.

2. Khắc phục sự không rõ ràng của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 về các tình huống có thể làm vô hiệu thoả thuận trọng tài. Điều 18 của Luật TTTM giới hạn 6 tình huống theo đó thoả thuận trọng tài vô hiệu. Đặc biệt, còn có quy định trường hợp thỏa thuận trọng tài không rõ ràng thì bên khởi kiện (nguyên đơn) có quyền được tự do lựa chọn tổ chức trọng tài thích hợp để khởi kiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Với quy định này sẽ ngăn chặn và giảm bớt tình trạng thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu hoặc tình trạng không có cơ quan nào giải quyết tranh chấp.

3. Luật TTTM có quy định tại Điều 17 nhằm bảo vệ người tiêu dùng trong việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp. Đối với các tranh chấp giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng, mặc dù điều khoản trọng tài đã được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hoá, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn thỏa thuận trọng tài thì người tiêu dùng vẫn được quyền lựa chọn Trọng tài hoặc Tòa án để giải quyết tranh chấp. Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ chỉ được quyền khởi kiện tại Trọng tài nếu được người tiêu dùng chấp thuận. Quy định này dựa trên một thực tế là thông thường người tiêu dùng bị đặt ở một vị thế có nhiều nguy cơ bị lạm dụng bởi các điều kiện và điều khoản trong hợp đồng in sẵn của người bán hàng hoặc người cung cấp dịch vụ, do vậy cần có quy định bảo vệ họ trong các tình huống cần thiết.

4. Kế thừa Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, Điều 20 Luật TTTM có các quy định về tiêu chuẩn tối thiểu đối với Trọng tài viên nhằm hình thành ở nước ta một đội ngũ trọng tài viên nòng cốt có năng lực, có tính chuyên nghiệp, có chuyên môn và uy tín xã hội. Theo đó, cá nhân có năng lực hành vi dân sự, có trình độ đại học trở lên và đã qua thực tế công tác từ năm năm trở lên có thể là trọng tài viên. Đặc biệt, Luật dành cho các Trung tâm trọng tài quyền được đưa ra các tiêu chuẩn cao hơn đối với các Trọng tài viên trong danh sách của mình. Tuy nhiên, về nguyên tắc, Trọng tài viên trong trường hợp vụ tranh chấp được giải quyết tại Trung tâm trọng tài hoặc do Trọng tài vụ việc giải quyết đều do các bên đương sự tự lựa chọn dựa trên niềm tin của họ vào tính chuyên nghiệp, kiến thức chuyên môn, uy tín của cá nhân đó và trong trường hợp đó thì nhà chuyên môn nào cũng có thể được các bên chọn làm Trọng tài cho vụ việc của họ. Đó là quá trình sàng lọc mang tính xã hội. Khắc phục những hạn chế của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, Luật Trọng tài thương mại không yêu cầu Trọng tài viên phải có quốc tịch Việt Nam. Điều đó có nghĩa là người nước ngoài cũng có thể được chỉ định làm trọng tài viên ở Việt Nam nếu các bên tranh chấp hoặc tổ chức trọng tài tín nhiệm họ. Quy định này đáp ứng nhu cầu thực tế trong giai đoạn Việt Nam tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế.

5. Về trọng tài quy chế, so với Pháp lệnh TTTM, Luật TTTM  bổ sung một số điểm mới sau đây:

Thứ nhất, Luật đã đưa ra định nghĩa pháp lý về Trọng tài quy chế để thay cho khái niệm “Hội đồng trọng tài được thành lập tại Trung tâm trọng tài” do Pháp lệnh năm 2003 quy định. Theo đó, Trọng tài quy chế là hình thức trọng tài được tiến hành tại Trung tâm trọng tài và theo quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài (khoản 6 Điều 3 Luật TTTM).

Thứ hai, Luật cho phép các Trung tâm trọng tài được ban hành quy tắc tố tụng trọng tài phù hợp với quy định của Luật và đảm bảo đặc thù của mỗi Trung tâm để tăng thêm tính hấp dẫn đối với các bên tranh chấp.

6. Cho phép các tổ chức trọng tài nước ngoài được mở chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên (Chương XII với 07 Điều).

7. Nâng cao vị thế của Trọng tài thông qua việc cho phép Hội đồng Trọng tài được thu thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng, áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 47, 48, 49 và 50). Quy định của Luật đã tiếp thu quy định của Luật mẫu UNCITRAL được thông qua năm 2006 nhằm giúp cho tố tụng trọng tài vận hành có hiệu quả hơn.

8. Hạn chế nguy cơ phán quyết của Trọng tài bị Tòa án tuyên hủy bởi quy định không phù hợp của Pháp lệnh TTTM như quy định về quyền của một bên được gửi đơn lên Toà án yêu cầu huỷ quyết định trọng tài nếu “không đồng ý với quyết định trọng tài”, bởi vì các quy định này của Pháp lệnh đã làm cho tố tụng trọng tài trở nên rất rủi ro và làm mất đi tính chung thẩm của phán quyết trọng tài mà pháp luật của hầu hết các nước đều công nhận.

9. Luật TTTM là đã tiếp thu nguyên tắc cấm hành vi mâu thuẫn trong tố tụng là nguyên tắc rất quan trọng đã hình thành lâu đời trong pháp luật tố tụng của các nước phát triển. Quy định mới của Luật (Điều 13) xác định, khi một bên nhận thấy những quy định của Luật hoặc của thoả thuận trọng tài bị vi phạm mà vẫn tiếp tục thực hiện tố tụng trọng tài và không phản đối vi phạm đó trong thời hạn luật định thì mất quyền phản đối tại Trọng tài hoặc Toà án. Quy định này nhằm ngăn chặn một cách có hiệu quả các hành vi cơ hội trong tố tụng trọng tài.

10. Một trong những điểm quan trọng nhất của Luật TTTM là thể hiện rõ nét mối quan hệ giữa Trọng tài với Toà án trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ tranh chấp của các bên. Luật đã đưa ra một loạt các quy định mới nhằm xác định mối quan hệ pháp lý quan trọng này: xác định rõ Tòa án có thẩm quyền đối với hoạt động trọng tài và liệt kê 8 nội dung thẩm quyền của Toà án trong quan hệ với Trọng tài bao gồm: thu thập chứng cứ, lưu giữ chứng cứ; đăng ký phán quyết trọng tài; tuyên thoả thuận trọng tài vô hiệu; xác định thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; giải quyết và yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài; bảo đảm sự có mặt của người làm chứng; áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; chỉ định, thay đổi trọng tài viên. Quy định tại các điều luật khác liên quan đã cụ thể hoá nội dung những thẩm quyền này của Toà án. Quy định này đã khắc phục được những bất cập của Pháp lệnh TTTM, tạo điều kiện để các Tòa án và Hội đồng trọng tài cũng như các bên tranh chấp tránh được lúng túng trong các trường hợp cụ thể, góp phần tạo điều kiện thuận lợi để trọng tài hoạt động có hiệu quả.

11. Quy định phù hợp hơn về thủ tục Tòa án xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài Khác với Pháp lệnh TTTM, thủ tục tòa án xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài theo Luật TTTM chỉ có một cấp và có giá trị chung thẩm. Luật quy định một Hội đồng gồm 03 thẩm phán xem xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài và quyết định của Hội đồng là chung thẩm có hiệu lực thi hành ngay là phù hợp (Điều 71).

12. Nhằm khuyến khích hoạt động của các tổ chức trọng tài, tạo điều kiện cho các Trọng tài viên nâng cao trình độ nghiệp vụ trọng tài, bảo vệ các quyền và thực hiện tốt nghĩa vụ, Luật TTTM có 01 điều quy định về việc thành lập Hiệp hội trọng tài. Hiệp hội trọng tài là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của Trọng tài viên và các Trung tâm trọng tài. Việc thành lập và hoạt động của Hiệp hội trọng tài được thực hiện theo quy định của pháp luật về hội nghề nghiệp (Điều 22 Luật TTTM).

Theo Hà Phương.


[1] Các thông tin, số liệu trong bài viết này được trích từ nguồn của Hội Luật gia Việt Nam (Tài liệu trình Quốc hội khóa XII về Dự án Luật Trọng tài thương mại, năm 2009 và 2010).

[2] Đây là hai tổ chức tiền thân của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VIAC). VIAC được thành lập theo Quyết định số 204/TTg ngày 28 tháng 4 năm 1993 của Thủ tướng Chính phủ  trên cơ sở hợp nhất Hội đồng Trọng tài Ngoại thương và Hội đồng Trọng tài Hàng hải.

[3] Các Trung tâm trọng tài kinh tế được thành lập theo Nghị định số 116/CP ngày 5/9/1994 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Trọng tài kinh tế.

N guồn: Bộ Tư pháp  

Công ty Luật Bắc Việt Luật
P2802, tầng 28, tòa nhà Central  Fied , Trung Kính, Trung  Hòa, Cầu Giấy, Hà nội
Tel: 87696666-0386319999
Hotline: 0938-188-889 – 0913753918
www.bacvietluat.vn - www.tuvanluat.net - www.sanduan.vn"HÃY NÓI VỚI LUẬT SƯ ĐIỀU BẠN CẦN"

  • TAG :

Tin liên quan

Danh mục

Loading...

Bài xem nhiều

Bài nổi bật