PHẠM VI TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP VỀ DÂN SỰ

  • Bài viết
  • 22 tháng 5, 2011
  • 432 lượt xem
  • 0 bình luận

Cùng với sự phát triển của xã hội và xu hướng hội nhập, toàn cầu hoá ngày một lớn mạnh giữa các quốc gia, đòi hỏi sự phát triển quan hệ hợp tác giữa các quốc gia trên mọi lĩnh vực và ở các cấp độ khác nhau. Sự hợp tác này làm phát sinh ngày một nhiều các vấn đề dân sự, hình sự, hành chính, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Sự hợp tác giữa các quốc gia trên thực tế có thể tiến hành theo nguyên tắc có đi có lại hoặc trên cơ sở điều ước quốc tế với mục đích chính là đảm bảo sự thừa nhận về quyền nhân thân và quyền tài sản của cá nhân và pháp nhân của quốc gia này trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia khác.

Để tiến hành hoạt động này, các quốc gia thực hiện việc ký kết các điều ước quốc tế trong đó thừa nhận và điều chỉnh sự hợp tác giữa các cơ quan tư pháp của hai bên về các vấn đề: xác định thẩm quyền của các Toà án, áp dụng pháp luật, đảm bảo các quyền tố tụng của cá nhân và pháp nhân nước ngoài, thực hiện các uỷ thác tư pháp, công nhận và thi hành các quyết định của Toà án hoặc Trọng tài nước ngoài về các vấn đề dân sự, chuyển giao tài liệu, dẫn độ tội phạm và các vấn đề khác thuộc lĩnh vực hình sự.

Trong tất cả các vấn đề được nêu ở trên, việc thực hiện các uỷ thác tư pháp, công  nhận và thi hành các quyết định của Toà án hoặc Trọng tài nước ngoài về các vấn đề dân sự, chuyển giao tài liệu, dẫn độ tội phạm và các vấn đề khác thuộc lĩnh vực hình sự được gọi chung là hoạt động tương trợ tư pháp quốc tế. Do đó, hoạt động tương trợ tư pháp quốc tế được hiểu là hoạt động mang tính trợ giúp về mặt pháp lý giữa các quốc gia, nếu không có sự trợ giúp này các cơ quan tư pháp của các quốc gia rất khó có thể thực hiện việc điều chỉnh cũng như thi hành pháp luật đối với cá nhân và pháp nhân của quốc gia mình.

Do vậy có thể khẳng định hoạt động tương trợ tư pháp quốc tế là việc các quốc gia (chủ yếu thông qua các cơ quan tư pháp như Toà án, Kiểm sát, Công an) giúp đỡ nhau về các vấn đề tư pháp (bao gồm cả dân sự và hình sự) trên cơ sở điều ước quốc tế liên quan hoặc trên nguyên tắc có đi có lại, nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, công dân và pháp nhân mỗi nước trên lãnh thổ của nhau. Để các hoạt động tương trợ tư pháp đạt hiệu quả và giữ vững chủ quyền, an ninh quốc gia, hoạt động tương trợ tư pháp phải tuân theo những nguyên tắc nhất định. Việc tương trợ tư pháp giữa các cơ quan tư pháp của Việt Nam và cơ quan tư pháp của các nước được thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cũng có lợi, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập, phù hợp với pháp luật Việt Nam. Trong trường hợp Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước ngoài chưa ký kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế có quy định về tương trợ tư pháp thì việc tương trợ tư pháp được Toà án Việt Nam chấp nhận trên nguyên tắc có đi có lại nhưng không được trái pháp luật Việt Nam, pháp luật và tập quán quốc tế [1].

Trong khuôn khổ bài viết này chỉ xin đề cập đến một lĩnh vực của hoạt động tương trợ tư pháp quốc tế, đó là tương trợ tư pháp quốc tế trong lĩnh vực dân sự, bài viết bao gồm ba nội dung chính, (i) Hoạt động tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự trước khi ban hành Luật Tương trợ tư pháp; (ii) Phạm vi tương trợ tư pháp về dân sự theo Luật tương trợ tư pháp và (iii) Những trường hợp cần tương trợ tư pháp về dân sự của nước ngoài.

I. Tương trợ tư pháp về dân sự trước khi ban hành Luật Tương trợ tư pháp

Hoạt động tương trợ tư pháp quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực dân sự với các nước được thực hiện trên cơ sở pháp lý sau:

- Bộ luật Tố tụng Dân sự ngày 15/6/2004

- Hiệp định tương trợ tư pháp (và pháp lý) được ký kết giữa Nhà nước ta với nước ngoài. Hiện nay, Việt Nam đã ký 15 Hiệp định tương trợ tư pháp (và pháp lý) với nước ngoài Đối với các nước chưa ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp, hoạt động tương trợ tư pháp được thực hiện thông qua con đường ngoại giao.

Song song với việc mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế trên mọi mặt của đời sống xã hội, các giao lưu dân sự, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình… có yếu tố nước ngoài theo đó cũng phát triển ngày càng mạnh mẽ. Trong bối cảnh đó, chúng ta đã mở rộng việc ký kết một số Hiệp định tương trợ tư pháp với những nước không có cùng chế độ chính trị-kinh tế cũng như xã hội đối với Việt Nam như Hàn Quốc, Pháp, Ba Lan…; đi đôi với việc ký kết những Hiệp định song phương này, Việt Nam cũng tham gia vào một số các điều ước quốc tế đa phương liên quan đến lĩnh vực tương trợ tư pháp như năm 1995 Việt Nam tham gia Công ước New York 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài.

Với việc ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp với những nước không có cùng chế độ chính trị-kinh tế- xã hội đối với Việt Nam và việc tham gia vào một số các điều ước quốc tế đa phương liên quan đến lĩnh vực tương trợ tư pháp, hoạt động tương trợ tư pháp quốc tế trong lĩnh vực dân sự đã có những bước thay đổi đáng kể, số lượng các uỷ thác tư pháp quốc tế trong lĩnh vực này cũng tăng lên rất nhiều và đi kèm với nó là sự đa dạng cũng như tính chất phức tạp của các giao lưu dân sự quốc tế.

Hoạt động tương trợ tư pháp quốc tế trong lĩnh vực dân sự bao gồm ba hoạt động chủ yếu là i) Thực hiện uỷ thác tư pháp về dân sự; ii) Công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài và iii) Công nhận và thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài. Bài viết này chỉ xin đề cập đến nội dung thứ nhất, đó là việc thực hiện uỷ thác tư pháp về dân sự.

Việc uỷ thác tư pháp về dân sự gồm hai yêu cầu chính sau:

1. Yêu cầu thực hiện uỷ thác tư pháp về dân sự do phía nước ngoài đưa ra đối với Việt Nam.

Thực trạng hoạt động tương trợ tư pháp ở nước ta trong những năm qua cho thấy, uỷ thác tư pháp về dân sự thường bao gồm:

- Tống đạt cho đương sự giấy gọi ra Toà, quyết định của Toà án;

- Thông báo ngày giờ xét xử vụ án;

- Lấy lời khai đương sự, người làm chứng, người có quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan;

- Thu thập chứng cứ;

- Xác minh địa chỉ của đương sự;

- Trưng cầu giám định…

Từ năm 2000 cho đến nay, Bộ Tư pháp thực hiện một số hồ sơ uỷ thác tư pháp quốc tế tương đối mới đó là xác định tình trạng nhân thân, tình trạng hôn nhân của đương sự; xác minh tính xác thực của Giấy phép lái xe, Chứng minh thư nhân dân, Bằng tốt nghiệp phổ thông, Bằng tốt nghiệp đại học… Những hồ sơ uỷ thác tư pháp như vậy do phía Đại sứ quán Ba Lan yêu cầu thực hiện là nhiều nhất, chiếm tới hơn 90% các uỷ thác loại này.

Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam sẽ thực hiện các uỷ thác tư pháp theo yêu cầu này của phía nước ngoài trên cơ sở các Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý đã ký kết giữa hai quốc gia. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thực hiện các uỷ thác tư pháp chủ yếu là Toà án ngoài ra còn có Sở Công an (đối với việc xác minh tính xác thực của Giấy phép lái xe, Chứng minh thư nhân dân), Uỷ ban nhân dân các phường (đối với việc xác minh địa chỉ, xác minh tình trạng hôn nhân, xác minh tình trạng nhân thân cũng như những thông tin có liên quan đến đương sự), các trường học (đối với việc xác minh tính xác thực của Bằng tốt nghiệp đại học và Bằng tốt nghiệp phổ thông)…

Việc các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thực hiện uỷ thác tư pháp theo yêu cầu của phía nước ngoài kể cả trong trường hợp không có Hiệp định là việc làm cần thiết nhằm bảo vệ trước hết quyền lợi của công dân Việt Nam trong vụ việc do phía nước ngoài yêu cầu. Bên cạnh đó còn góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước, cũng như khuyến khích ngày một nhiều hơn các chủ thể tham gia vào các quan hệ dân sự, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài với sự tin tưởng rằng các quan hệ đó nếu có phát sinh tranh chấp sẽ được giải quyết một cách nhanh chóng và hiệu quả thông qua hoạt động uỷ thác tư pháp được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của các quốc gia.

Việc thực hiện các uỷ thác tư pháp do phía nước ngoài yêu cầu được điều chỉnh bởi hai văn bản quy phạm pháp luật chính là:

- Thông tư liên bộ số 139/TT-LB ngày 12/3/1984 của Bộ Tư pháp-Viện Kiểm sát nhân dân tối cao-Toà án nhân dân tối cao-Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) và Bộ Ngoại giao về việc thi hành Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự đã ký giữa nước ta với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Thông tư này đã phân chia các công việc một cách rõ ràng và cụ thể cho các Bộ. Qua đó, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện các uỷ thác tư pháp điều tra về hình sự…; Toà án nhân dân tối cao xét xử các vụ án hình sự, các vụ kiện dân sự, lao động, hôn nhân và gia đình có liên quan đến công dân và pháp nhân của các nước ký kết khác, quyết định công nhận và cho thi hành ở nước ta những bản án, quyết định và biên bẩn hoà giải của Toà án các nước ký kết khác về các vấn đề dân sự, lao động, hôn nhân và gia đình…; Bộ Nội vụ thực hiện các uỷ thác điều tra về hình sự theo yêu cầu của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao như lập hồ sơ về bắt giữ, thu giữ các tang chứng, vật chứng, khám xét, tạm giữ, tạm giam, dẫn độ, hướng dẫn các cơ quan công an thực hiện uỷ thác điều tra và các uỷ thác khác về hình sự trên lãnh thổ Việt Nam khi Viện Kiểm sát nhân dân có thẩm quyền yêu cầu…; Bộ Ngoại giao  căn cứ theo đề nghị của Bộ Tư pháp hoặc Viện Kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện việc chuyển giao các giấy tờ, tài liệu cần thiết của các cơ quan tư pháp, cơ quan khác có thẩm quyền trong nước cho các cơ quan có trách nhiệm của nước ký kết có liên quan, tống đạt giấy tờ cho công dân nước mình cư trú trên lãnh thổ nước ký kết sở tại khi được yêu cầu…; Bộ Tư pháp thực hiện trao đổi các uỷ thác điều tra xác minh về dân sự, lao động, hôn nhân và gia đình, hướng dẫn thực hiện các uỷ thác về thi hành án và quyết định do nước ký kết kia xét xử…

- Thông tư số 163/HTQT ngày 25/3/1993 của Bộ Tư pháp về việc thực hiện uỷ thác tư pháp của Toà án nước ngoài. Thông tư 163 có những hướng dẫn cụ thể đối với việc nhận hồ sơ uỷ thác, thời gian thực hiện uỷ thác, về tống đạt giấy tờ và lấy lời khai, về thu thập chứng cứ theo nội dung uỷ thác, về thủ tục liên hệ với toà án nước ngoài và gửi hồ sơ, về địa chỉ.

Do không chỉ các nước có Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý với Việt Nam yêu cầu các cơ quan tư pháp Việt Nam thực hiện mà cả những nước chưa có Hiệp định cũng đưa ra những yêu cầu về uỷ thác, vì vậy khối lượng các uỷ thác tư pháp quốc tế mà các cơ quan tư pháp của chúng ta đã và đang thực hiện là rất lớn. Nếu như trong những năm 80, số lượng uỷ thác tư pháp quốc tế về dân sự theo yêu cầu chỉ khoảng trên 100 vụ/năm thì đến những năm đầu thập niên 90 số lượng uỷ thác tăng lên trung bình khoảng 300 vụ/năm, năm 1999 là 496 vụ; từ năm 2000 đến nay, số lượng các uỷ thác tư pháp quốc tế đã lên tới 600-700 vụ/năm, năm 2004 là 896 vụ, riêng 6 tháng đầu năm 2005 số lượng uỷ thác tư pháp đã tiến tới con số gần 700 vụ[3].

Trong số các uỷ thác tư pháp quốc tế về dân sự mà phía nước ngoài yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thực hiện, các uỷ thác về hôn nhân và gia đình chủ yếu là ly hôn chiếm một số lượng rất lớn, khoảng 60%. Trong số các uỷ thác tư pháp tư pháp quốc tế này, Cộng hoà liên bang Đức là quốc gia đứng đầu trong việc đề nghị thực hiện uỷ thác, tiếp đó là Pháp, ngoài ra còn có Hàn Quốc, Thuỵ Sỹ, Na-uy, Nga. Từ năm 2000 đến nay, một số nước như Lào, Campuchia, Indonexia, Thái Lan, Ấn Độ là những nước chưa bao giờ đưa yêu cầu thực hiện uỷ thác quốc tế về dân sự cũng đã đưa yêu cầu với số lượng tương đối lớn. Bên cạnh các yêu cầu uỷ thác về hôn nhân và gia đình còn có các yêu cầu về xác minh địa chỉ, tình trạng nhân thân, tình trạng hôn nhân của đương sự, xác minh tính xác thực của Giấy phép lái xe, tính xác thực của Bằng tốt nghiệp phổ thông, tốt nghiệp đại học, chứng minh thư nhân dân của đương sự, Ba Lan là nước đưa ra yêu cầu nhiều nhất đối với những uỷ thác loại này, những yêu cầu về uỷ thác của Ba Lan chiếm đến 90%. Từ năm 1995 đến nay, Cộng hoà Séc là nước đứng đầu trong việc đưa ra các yêu cầu về uỷ thác tư pháp liên quan đến vấn đề truy nhận cha và cấp dưỡng nuôi con. Ngoài các yêu cầu uỷ thác tư pháp chủ yếu nêu trên, các cơ quan tư pháp trong những năm gần đây cũng thực hiện các yêu cầu uỷ thác liên quan đến việc tống đạt giấy gọi ra Toà án nước ngoài trong các vụ tranh chấp dân sự, tranh chấp phát sinh đối với hợp đồng lao động.

2.Yêu cầu thực hiện uỷ thác tư pháp do Toà án Việt Nam đưa ra đối với Toà án nước ngoài và Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài.

Đối với các yêu cầu thực hiện uỷ thác tư pháp do phía Việt Nam đưa ra thì uỷ thác tống đạt giấy tờ và lấy lời khai đương sự là công dân Việt Nam đang cư trú ở nước ngoài trong vụ kiện ly hôn là loại việc chiếm đa số, khoảng 85-90%. Ngoài ra, các uỷ thác tư pháp về việc lấy lời khai đương sự là công dân Việt Nam đang cư trú ở nước ngoài trong các vụ kiện dân sự như thừa kế, chia tài sản, tranh chấp đất đai, đòi bồi thường thiệt hại, đơn phương chấm dứt hợp đồng, thay đổi họ tên, yêu cầu tiền cấp dưỡng nuôi con… cũng có xu hướng tăng lên.

Từ đầu những năm 90 đến nay, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Toà án nhân dân thành phố Hà Nội là hai nơi thực hiện nhiều nhất các uỷ thác tư pháp của Toà án nước ngoài và cũng là nơi đưa ra nhiều yêu cầu về uỷ thác tư pháp nhất đối với Toà án nước ngoài và Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài. Trong các yêu cầu uỷ thác tư pháp này, thì uỷ thác tư pháp đối với vụ kiện ly hôn giữa một bên là công dân Việt Nam và một bên là công dân Đài Loan do Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu có số lượng lớn nhất, chiếm khoảng 50% tổng số yêu cầu. Riêng năm 1999, số lượng vụ kiện mà Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu phía đài Loan thực hiện là 70 vụ nhưng các Toà án có thẩm quyền của Đài Loan mới chỉ thực hiện được 30 vụ. Năm 2004, số vụ kiện mà Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu đối với phía Đài Loan là hơn 100 vụ nhưng chỉ có duy nhất 1 vụ việc được Toà án có thẩm quyền của Đài Loan tống đạt thành công tới đương sự. Trong 6 tháng đầu năm 2005, số uỷ thác tư pháp do Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu là 73 vụ nhưng chưa có một vụ kiện ly hôn nào giữa công dân Việt Nam và công dân Đài Loan được phía Toà án có thẩm quyền của Đài Loan tống đạt thành công tới đương sự [4].

Bên cạnh các vụ kiện ly hôn giữa công dân Việt Nam và công dân Đài Loan, thì số lượng các vụ kiện ly hôn do Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu liên quan đến công dân Việt Nam và người Việt Nam có quốc tịch Hoa Kỳ cũng tăng lên với số lượng lớn từ đầu năm 2000 đến nay. Nhưng do số người Việt Nam có quốc tịch Hoa Kỳ định cư ở Hoa Kỳ trên nhiều bang khác nhau, không có tính tập trung nên việc thực hiện các uỷ thác tư pháp này gặp rất nhiều khó khăn và không mang lại hiệu quả cao. Hơn nữa, từ đầu năm 2005, phía Hoa Kỳ đã bày tỏ ý định tạm dừng việc thực hiện các yêu cầu uỷ thác tư pháp của phía Việt Nam trong các vụ kiện ly hôn giữa công dân Việt Nam và công dân Hoa Kỳ, do đó số các hồ sơ tồn đọng mà Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh gửi tới Bộ Tư pháp là rất lớn, khoảng 200 hồ sơ.

Các yêu cầu uỷ thác tư pháp về dân sự của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đối với Toà án nước ngoài cũng như Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài chủ yếu là các vụ kiện ly hôn giữa công dân Việt Nam và người Việt Nam đang sinh sống, học tập tại Cộng hoà liên bang Đức, Cộng hoà Séc, Ba Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga, Ucraina, Pháp… Ngoài ra, số vụ kiện ly hôn giữa công dân Việt Nam và công dân Đức, Pháp cũng tăng lên nhiều từ đầu năm 2000 đến nay. So với các yêu cầu uỷ thác tư pháp của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, các yêu cầu uỷ thác tư pháp của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội thường đạt được hiệu quả cao hơn, một mặt do phía Toà án có thẩm quyền của Đức và Pháp hoạt động nhanh nhạy, hiệu quả; mặt khác các Đại sứ quán Việt Nam tại các nước Cộng hoà Séc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ucraina, Nga… được sự ủng hộ nhiệt tình của cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống, học tập và làm việc nên việc thực hiện các uỷ thác tư pháp do Toà án nhân dân thành phố Hà Nội yêu cầu có kết quả khả quan hơn, việc tống đạt thành công chiếm tới 60-70% số lượng các yêu cầu.

Bên cạnh Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Toà án nhân dân thành phố Hà Nội, từ đầu năm 2000 đến nay đặc biệt là trong các năm 2002, 2003, 2004 và 6 tháng đầu năm 2005 yêu cầu uỷ thác tư pháp do các Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Thuận, Long An, Quảng Ninh, Sơn La, Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng… cũng tăng lên ngày một nhiều, khoảng 5-6 vụ/năm.

Việc thực hiện các uỷ thác tư pháp quốc tế trong những năm qua nhìn chung đã đi vào khuôn khổ, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu đặt ra, tuân thủ nghiêm túc các quy ước trong các Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý đã ký kết, tuân thủ các quy định tại Thông tư 163 và Thông tư liên bộ số 139. Bên cạnh những ưu điểm như trên, công tác uỷ thác tư pháp quốc tế cũng có những mặt hạn chế và tồn tại, được thể hiện ở những điểm sau:

Thứ nhất, tiến độ thực hiện các uỷ thác tư pháp quốc tế còn chậm so với yêu cầu. Đối với các yêu cầu do phía nước ngoài đưa ra, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này là do các toà án Việt Nam ngoài các toà án ở các tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng… có cán bộ chuyên trách làm công tác uỷ thác pháp thì phần lớn các toà án địa phương chưa có các cán bộ chuyên trách làm công tác uỷ thác tư pháp, hơn nữa đối với những Toà án ở các vùng sâu, vùng xa như Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Kon Tum… do điều kiện vật chất thiếu thốn, thiếu phương tiện đi lại, cộng với địa hình phức tạp đã gây không ít những trở ngại cho công tác thực hiện các uỷ thác. Bên cạnh đó, chế tài đối với việc đương sự không nhận hồ sơ lại chưa có; địa chỉ của đương sự cần được tống đạt giấy tờ và lấy lời khai đôi khi không rõ ràng, thậm chí còn sai cả tên của đương sự. Trước khi tiến hành tống đạt các yêu cầu uỷ thác này, các toà án thường tiến hành việc xác minh tên và địa chỉ của đương sự, do vậy những sai sót trong việc ghi tên và địa chỉ của đương sự sẽ gây nhiều khó khăn cho các cán bộ toà án. Có những uỷ thác tư pháp quốc tế không thể thực hiện được do đương sự đã chuyển đi nơi khác nhưng không cắt hộ khẩu và không khai báo tạm vắng với uỷ ban nhân dân phường sở tại. Thực trạng này xảy ra nhiều đối với các uỷ thác tư pháp quốc tế của Cộng hoà Séc trong các vụ kiện truy nhận cha và cấp dưỡng nuôi con, của Ba Lan trong việc xác minh địa chỉ, tình trạng hôn nhân của đương sự.

Thứ hai, về chất lượng thực hiện các uỷ thác tư pháp quốc tế, nhiều toà án địa phương thậm chí ngay cả Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh là nơi đưa ra cũng như nhận được nhiều yêu cầu thực hiện các uỷ thác tư pháp quốc tế nhất còn chưa thực hiện nghiêm túc theo hướng dẫn tại Thông tư số 163/HTQT ngày 25/3/1993 của Bộ Tư pháp về việc thực hiện uỷ thác tư pháp của Toà án nước ngoài. Trong hồ sơ thực hiện các uỷ thác tư pháp, địa chỉ của đương sự ghi không rõ ràng, thiếu các giấy tờ theo hướng dẫn, Biên bản tống đạt giấy tờ được lập không theo quy định như không có chữ ký của Thẩm phán chủ toạ phiên toà, chữ ký của thư ký toà án, của người nhận tống đạt, thậm chí có những Biên bản tống đạt không có dấu của toà án. Một điều cần phải quan tâm là dường như các toà án của ta chưa quan tâm cũng như chưa có sự nghiêm túc trong việc thực hiện đúng quy định về thủ tục liên hệ với Toà án nước ngoài và gửi hồ sơ cho Toà án nước ngoài. Đối với những nước đã có Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý, ví dụ, trong việc tương trợ tư pháp cho công dân mang quốc tịch Trung Hoa, Điều 5 Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự và hình sự giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà nhân dân Trung Hoa[5] đã chỉ rõ “Văn bản yêu cầu tương trợ tư pháp và các tài liệu kèm theo được lập trên cơ sở Hiệp định này, phải gửi kèm theo bản dịch có chứng thực một cách hợp thức ra ngôn ngữ chính thức của Bên ký kết được yêu cầu hoặc ra tiếng Anh”; hoặc việc tương trợ tư pháp cho công dân mang quốc tịch Pháp, Điều 11 Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà Pháp[6] quy định “Giấy tờ cần tống đạt phải được lập thành 2 bộ, dịch ra ngôn ngữ của Nước ký kết được yêu cầu”, vậy mà trong phần lớn các hồ sơ yêu cầu tương trợ tư pháp của Toà án Việt Nam gửi tới Bộ Tư pháp để tống đạt cho công dân mang quốc tịch Trung Hoa và công dân mang quốc tịch Pháp đã không tuân thủ các quy định này.

Bên cạnh đó, trong rất nhiều các hồ sơ uỷ thác tư pháp mà Bộ Tư pháp thực hiện trong 6 tháng đầu năm 2005, có những kết quả thực hiện các uỷ thác tư pháp do toà án Việt Nam thực hiện theo yêu cầu của Toà án nước ngoài, khi gửi hồ sơ đến Bộ Tư pháp, trong hồ sơ chỉ có duy nhất một Biên bản tống đạt cho đương sự, ngoài ra không có bất kỳ một loại giấy tờ nào khác theo quy định tại Thông tư số 163 như phải có Công văn gửi Toà án uỷ thác, có phiếu bảo đảm hoặc công văn gửi đến Bộ Tư pháp. Khi nhận được những hồ sơ uỷ thác tư pháp loại này, Bộ Tư pháp sẽ tiến hành việc hoàn trả hồ sơ cho toà án, trong đó yêu cầu toà án phải làm đúng quy định và hướng dẫn của Bộ Tư pháp, việc làm này sẽ làm kéo dài thời gian không cần thiết đối với việc thực hiện các uỷ thác tư pháp. Số lượng các hồ sơ uỷ thác tư pháp không tuân thủ quy định và hướng dẫn của Bộ Tư pháp không nhiều chỉ chiếm khoảng dưới 15% trên tổng số các uỷ thác tư pháp, nhưng điều đó cũng cho thấy những bất cập mang tính chủ quan trong việc thực hiện các uỷ thác tư pháp. Việc này sẽ ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện các uỷ thác tư pháp, song song với nó là tiến độ của các vụ kiện cũng như quyền lợi sẽ bị ảnh hưởng của đương sự.

Thứ ba, việc thực hiện các uỷ thác tư pháp do toà án Việt Nam yêu cầu đối với Toà án nước ngoài và Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài về việc tống đạt giấy tờ và lấy lời khai đương sự là công dân Việt Nam tạm trú ở nước ngoài, công dân nước ngoài là đương sự trong các vụ kiện dân sự, lao động, hôn nhân và gia đình đang được các toà án trong nước thụ lý nhìn chung giải quyết còn rất chậm. Nhiều trường hợp phía nước ngoài không trả lời (Đài Bắc, Cam-pu-chia) hay phía nước ngoài không nhận uỷ thác tư pháp qua đường ngoại giao (Hoa Kỳ, Trung Quốc) Nguyên nhân của việc giải quyết chậm trễ của Toà án nước ngoài cũng như Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài chắc chắn có cả những nguyên nhân khách quan và chủ quan, do đó cần phải có sự hợp tác chặt chẽ hơn nữa giữa các cơ quan tư pháp Việt Nam và cơ quan tư pháp các nước cũng như sự quản lý chặt chẽ của Bộ Ngoại giao đối với các Đại sứ quán và cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài.

Thứ tư, số lượng các uỷ thác tư pháp do Toà án nước chưa có Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý với Việt Nam yêu cầu cũng như phía Toà án Việt Nam yêu cầu ngày một nhiều, việc thực hiện các uỷ thác tư pháp này do chưa có văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh nên chủ yếu phải thông qua kênh ngoại giao, kết quả của các uỷ thác tư pháp này phần lớn không đáp ứng yêu cầu của các toà án trong nước.

II. Phạm vi tương trợ tư pháp về dân sự theo Luật Tương trợ tư pháp

Phạm vi tương trợ tư pháp về dân sự theo Điều 10 Luật Tương trợ tư pháp[7] bao gồm các nội dung chính như tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu liên quan đến tương trợ tư pháp về dân sự; triệu tập người làm chứng, người giám định; thu thập, cung cấp chứng cứ.

Giấy tờ, hồ sơ, tài liệu liên quan đến tương trợ tư pháp về dân sự có thể bao gồm:

- Văn bản của cơ quan có thẩm quyền yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự. Văn bản này thực chất là công văn hoặc công hàm yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của nước yêu cầu gửi tới nước nhận yêu cầu.

- Văn bản uỷ thác tư pháp về dân sự. Văn bản uỷ thác tư pháp về dân sự thực chất là những nội dung chính trong yêu cầu tương trợ của nước yêu cầu. Văn bản uỷ thác tư pháp về dân sự theo quy định tại Điều 12 Luật Tương trợ tư pháp bao gồm các nội dung như: ngày, tháng, năm và địa điểm lập văn bản; tên, địa chỉ cơ quan uỷ thác tư pháp; tên, địa chỉ cơ quan được uỷ thác tư pháp; họ, tên, địa chỉ nơi thường trú hoặc nơi làm việc của cá nhân, tên đầy đủ, địa chỉ hoặc văn phòng chính của cơ quan, tổ chức có liên quan trực tiếp đến uỷ thác tư pháp; nội dung công việc được uỷ thác tư pháp về dân sự (trong phần nội dung công việc này, cơ quan yêu cầu uỷ thác phải nêu rõ mục đích uỷ thác, công việc và các tình tiết liên quan, trích dẫn điều luật có thể áp dụng, các biện pháp để thực hiện uỷ thác và thời hạn thực hiện uỷ thác).

- Quyết định của Toà án. Trong vụ việc dân sự, Quyết định của Toà án có thể là Quyết định ly hôn, Quyết định về truy nhận cha cho con, Quyết định về quyền nuôi con, Quyết định về việc phân chia tài sản, Quyết định về phân chia di sản trong thừa kế…

- Giấy triệu tập đến Toà án. Trong vụ việc dân sự, Giấy triệu tập có thể liên quan đến việc phân chia tài sản trong ly hôn, nuôi con, cấp dưỡng, thừa kế…

III. Những trường hợp cần tương trợ tư pháp về dân sự của nước ngoài

Yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự đối với nước ngoải xảy ra khi đương sự, người có liên quan đến vụ việc dân sự, người làm chứng, người giám định, chứng cứ liên quan đến vụ việc hiện ở nước ngoài.

Điều 13 Luật Tương trợ tư pháp đã quy định rõ các trường hợp cần tương trợ tư pháp về dân sự của nước ngoài, qua đó cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thực hiện tương trợ tư pháp trong các trường hợp:

1. Tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu cho người đang ở nước được yêu cầu.

Đối với vụ việc cụ thể trong hôn nhân và gia đình, khi một trong hai bên vợ hoặc chồng đang sinh sống, học tập, công tác hoặc có công việc kinh doanh ở nước ngoài, vụ việc này sẽ phát sinh yếu tố nước ngoài. Do đó, người vợ hoặc chồng ở trong nước muốn ly hôn phải gửi yêu cầu tới toà án Việt Nam có thẩm quyển giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Toà án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là toà án nhân dân cấp tỉnh.

2. Triệu tập người làm chứng, người giám định đang ở nước được yêu cầu.

Đối với một số vụ việc dân sự cần đến lời khai hoặc chứng cứ của người người làm chứng, bản kết luận chuyên môn của người giám định như một vụ việc về truy nhận cha cho con, tranh chấp tài sản trong hôn nhân, đòi quyền thừa kế… nhưng người làm chứng, người giám định đang ở nước ngoài, thì cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải gửi đề nghị triệu tập người làm chứng, người giám định tới cơ quan có thẩm quyền của nước nơi người làm chứng, người giám định đang có mặt để yêu cầu người làm chứng, người giám định có mặt tại Việt Nam trong một thời gian nhất định để họ tham gia vào việc giải quyết vụ việc dân sự có liên quan.

Điều 8 Luật Tương trợ tư pháp quy định cụ thể về triệu tập và bảo vệ người làm chứng, người giám định. Qua đó:

- Người làm chứng, người giám định được tạo điều kiện thuận lợi trong nhập cảnh, xuất cảnh theo quy định của pháp luật Việt Nam;

- Cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải cam kết về việc bảo đảm an toàn tính mạng, sức khoẻ, điều kiện ăn ở, đi lại cho người làm chứng, người giám định; người làm chứng;

- Người làm chứng, người giám định được triệu tập đến Việt Nam sẽ không bị bắt, bị tam giam, tạm giữ hoặc bị điều tra, truy tố, xét xử vì những hành vi trước khi đến Việt Nam như cung cấp lời khai làm chứng, bản kết luận chuyên môn đối với vụ án mà người đó được triệu tập; phạm tội ở Việt Nam; có quan hệ với đối tượng đang bị điều tra, truy tố, xét xử về hình sự của Việt Nam; có liên quan đến một vụ việc dân sự hoặc hành chính khác ở Việt Nam.

3. Thu thập, cung cấp chứng cứ ở nước được yêu cầu để giải quyết vụ việc dân sự tại Việt Nam.

Khi giải quyết một vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài phát sinh việc phải có thu thập chứng cứ ở nước ngoài, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam không có thẩm quyền thu thập trực tiếp chứng cứ ở nước ngoài mà phải gửi yêu cầu về thu thập và cung cấp chứng cứ tới cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài. Dựa trên yêu cầu tương trợ này của phía Việt Nam, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài sẽ xem xét việc có hay không thực hiện yêu cầu tương trợ.

Các trường hợp cần tương trợ tư pháp về dân sự của nước ngoài như đã nêu ở trên phải được thực hiện thông qua cơ quan đầu mối về tương trợ tư pháp về dân sự. Điều 62 Luật Tương trợ tư pháp quy định “Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về hoạt động tương trợ tư pháp; tiếp nhận, chuyển giao, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện các uỷ thác tư pháp về dân sự”. Do vậy, Bộ Tư pháp chính là cơ quan đầu mối của Việt Nam trong việc giải quyết các yêu cầu về tương trợ tư pháp về dân sự đối với nước ngoài. Qua đó, khi yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài tương trợ tư pháp về dân sự, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải gửi yêu cầu tương trợ tới Bộ Tư pháp. Thủ tục yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp về dân sự được quy định cụ thể tại Điều 14 Luật Tương trợ tư pháp.

[1] Điều 414, Bộ luật Tố tụng Dân sự Việt Nam 15/6/2004

[2] Tham khảo trên trang thông tin điện tử của Bộ Ngoại giao (www.mofa.gov.vn)

[3] Báo cáo tổng kết công tác tương trợ tư pháp từ năm 1995 của Bộ Tư pháp tại Hội nghị tổng kết 15 năm công tác tương trợ tư pháp, tháng 11 năm 2005 tại Hà Nội.

[4] Báo cáo tổng kết hoạt động uỷ thác tư pháp về dân sư, hôn nhân và gia đình của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh tại Hội nghị tổng kết 15 năm thực hiện hoạt động tương trợ tư pháp  tháng 11 năm 2005 tại Hà Nội.

[5] Hiệp định Tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự và hình sự giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ngày 19/10/1998

[6] Hiệp định Tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà Pháp ngày 24/02/1999.

[7] Luật Tương trợ tư pháp được Quốc hội thông qua ngày 21/11/2007.

SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BỘ TƯ PHÁP

Công ty Luật Bắc Việt Luật
P2802, tầng 28, tòa nhà Central  Fied , Trung Kính, Trung  Hòa, Cầu Giấy, Hà nội
Tel: 87696666-0386319999
Hotline: 0938-188-889 – 0913753918
www.bacvietluat.vn - www.tuvanluat.net - www.sanduan.vn"HÃY NÓI VỚI LUẬT SƯ ĐIỀU BẠN CẦN"

  • TAG :